(93) Thói hư tật xấu của người Việt
.
Lời giới thiệu
Tôi (người sưu tầm) đếm thấy có cả thảy 93 cái thói xấu của người Việt; và dĩ nhiên danh sách xấu xí này còn thiếu rất nhiều điều xấu cần phải nêu ra thêm cho trọn vẹn; nhưng có lẽ vì bài viết đã dài quá, mỏi tay cho nên ông Vương Trí Nhàn phải tạm ngưng. Riêng tôi thấy cần phải kể thêm các mục đại khái như: “Chen lấn,” “Đi trễ,” “Nổ văng miểng / Khoe khoang hết biết,” “Ồn ào quá sức tưởng tượng trong các dịp họp mặt / tiệc tùng ở nhà hàng…”
Trần Văn Giang
9/21/2019
*
Lời dẫn (của Vương Trí Nhàn)
Gần đây nhiều nhà nghiên cứu nước ta gặp nhau ở một ý tưởng đồng thời với việc ca ngợi những truyền thống tốt đẹp, chúng ta phải sớm bắt tay vào việc miêu tả và đánh giá những thói hư tật xấu từng hình thành trong lịch sử và đã ăn sâu trong mỗi con người, đó là những nhân tố khiến xã hội trì trệ, bảo thủ. Đây là một hướng suy nghĩ đúng, đang được sự cổ vũ và đồng tình của dư luận.
Sau đây, chúng tôi xin được phép giở chồng sách báo cũ, ghi lại những nhận xét của các bậc tiền bối về những hạn chế của con người Việt Nam trong lịch sử. Các đầu đề nhỏ là do chúng tôi mạn phép đặt ra để cùng nên theo dõi.
Khi đoạn trích bỏ qua một số câu chữ không cần thiết mà tập trung vào ý tưởng chính chúng tôi dùng dấu ba chấm đặt trong ngoặc đơn. Những chú thích cuối bài đều là của người biên soạn…
Đường xá nhà cửa luộm thuộm nhếch nhác.
Nói riêng về một sự ở… Nay trong kinh thành, con đường lục bộ cho đến đường các nha thự, chợ quán, tường hào, vườn hoa và các bến sông, chỗ nào cũng có uế khí, thậm chí có kẻ trước mặt công chúng mà đi tiểu đại. Các cầu dọc theo sông, không luận ngây đêm đàn ông đàn bà, cứ ra nơi ấy mà phóng uế, quen lấy làm thường… Ở phương Tây, phàm những người nào bỏ rác làm nhơ đường đều bị phạt cả vì việc ấy bất nhã mà có mối hại chung. Ta cũng là người như họ, lại không biết xấu hổ sao?
Đến như gạch vỡ, ngói hư, cây nhành khô lá rụng, rác và tro than các nhà loại ra, người nước khác đều thu nhặt làm đồ vật hữu dụng. Mà người mình thì vứt ra cùng đường, ném xuống ao vũng, hoặc đổ ra ngoài hào quanh thành, chất đầy cả bến sông.
… Dinh thự các quan, tường vách xiêu đổ Ngoài đường thì bùn lầy, vườn tược thì rác bấn, trước sân thì cỏ mọc. Ngoài hào thì nơi lồi nơi hủng, các nhà trong thành hai bên đường gần nhà chỉ theo giới hạn mà quét dọn. Những đường bèn vách tường đó, mùi hơi hôi thối, người đi qua phải che mũi đi mau. Như thế thì lòng tu ố (1) ở đâu? Sao gọi là nước biết giữ lễ nghĩa?
(1) Tu ố: ghét điều xấu ở kẻ khác.
*
1-Nói năng thô tục
(Nguyễn Trường Tộ, Về việc cải cách phong tục, 1871).
Nước ta những nơi chợ búa thành phố, không luận đàn bà trẻ con, đến người có học biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ. Tập thành thói quen, những tiếng tục tĩu, người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói lại lấy làm khoái. Cho đến câu mắng bài chửi, đọc ra có cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà không trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tấn, Trương Nghi (2) chiếm giải quán quân.
Đến lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát lên tay xuống ngón, mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò,nước miếng như bọt giải, tay cầm dát lia, chân đi cà xiểng, không khác gì người điên. Lại còn một điều xấu nữa, hễ có bất bình với ai thì phát thệ (3) và nguyện rủa chúc dữ (4) rất nặng. Thường hàng ngày cùng giao du với nhau, mà đến lúc bô nhau, chất chứa điều bất bình lâu, thì khí yêu (5) nhân đó mà sinh ra, người nọ bảo người kia “đầy miệng điều láo, một ngày bán được ba gánh giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua được một điều thực.” Thật là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ nào! Cái phong tục kiêu bạc (6) đến thế là cùng. Thế giới chưa có nước nào như xứ mình.
(2) Các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến quốc bên Trung quốc
(3) Phát thệ: thế bồi.
(4) Chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ.
(4) Tinh thần gian tà bất chính.
(5) Cũng tức là “kịnh bạc vớ nghĩa cổ” kẻ không biết tự trọng.
(6) Kiêu ngạo với vẻ khinh bạc.
2-Dễ học cái dở hơn cái hay
(Lương Dũ Thúc, Nông cổ mín đàm, 1904)
Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy (1), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái mau hết mức về việc xa xỉ, về lý tự bạo (2), mà không thông thái về cách tính toán, về phép thương cổ (3); không có thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (4) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm. Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn và không học nghề chi cho giới, thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số ngàn nữa.
(1) Chỉ lối sống sang trọng.
(2) Chỉ tham vọng muốn trở nên ông nọ kia bà kia.
(3) Buôn bán.
(4) Việc sinh lợi.
(5) Dư ra.
3-Xấu làm tốt dốt làm thông
(Ngô Đức Kế, tạp chí Hữu Thanh, 1923)
Chúng ta thừa thụ cái cơ nghiệp của tiền nhân, sinh nở phồn thực ở đất nước này đã mấy nghìn năm đến nay lại gặp lúc ngọn triều tiến hoá tràn khắp mọi nơi, thế mà không làm sao bước tới theo người. Mà chỉ mê mẩn tối tăm, ngu hèn dốt nát đói nghèo khốn khổ, không dám ló đầu ra với mọi người. Nhất ghét là xấu làm tốt dốt làm thông, mượn cái văn minh của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực trăm việc chẳng ra gì, mà nhân cách một ngày một hư, phong tục một ngày một nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề trong, văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày càng thêm man rợ.
Nghĩ thấy Tổ quốc mình như thế, thôi thì không có việc mà bàn không có chuyện mà chép, mà cũng không bàn làm gì không chép làm gì.
4-Bắt chước vội vã thêm gây hại
(Trần Trọng Kim, Nho giáo, 1930)
Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa. Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi còn cái tinh thần ở trong, phi (1) lâu ngày nhiễm (2) lấy được mà hóa (3) đi, thì khó lòng mà bắt chước được.
Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình. Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm điều có ích cho sự tiến hóa của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá lại thành cái độc gây ra các thứ bệnh cho xã hội. Mà sự lầm lỗi ấy chỉ một ngày một thêm ra chứ không bớt đi được.
(1) Không phải.
(2) Thâm nhập.
(3) Thay đổi. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: “Phàm vật này mất đi mà vật kia sinh ra gọi là hoá.”
(4) Vọng tưởng: nghĩ lầm.
5-Ích kỷ và khôn vặt
(Nguyễn Đỗ Mục, Đông dương tạp chí, 1914)
Cái tật ích kỷ vốn là một thứ hay lây: Trông thấy những vườn hoa cây cảnh ở sân nhà trường hay ở nơi đền chùa, hoặc cạnh đường đi lối lại, đã không biết giữ gìn để làm một cái cảnh vườn chung thì chớ, nhiều người lại còn đang tay bẻ tàn bẻ hại, để đem về nhà mà chơi thích chí lấy một mình. Cái chứng ích kỷ đã mọc ra, đến lúc lớn lên thành ra một người đi đến đâu phá hủy đến đấy. Cũng vì lẽ đó mà dân An Nam không mấy khi có được cảnh vui chung (1), ai có muốn chơi cảnh thì lại phải xây một vài cái bể cạn hay là bầy mươi lăm cái chậu con để làm một khu vui riêng mà không chung chạ với ai cả. Dần dần nảy ra một cái tư tưởng đáng cười, đáng khinh, đáng ghét, đáng sợ là hai chữ ích kỷ, mà một câu “ăn cỗ đi trước lội nước đi sau” đủ vẽ hết được ruột gan.
(1) Tức là không có các loại công viên hoặc khu giải trí công cộng.
6-Vụng nói chuyện
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đông dương tạp chí, 1914)
Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những người đời nay. Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc, chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn người nghe. Mà xem như trong cách nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia biết cát cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ khu… Ai ăn nói có tư tưởng, có tỏ học vấn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có nghĩa, làm cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt…
Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen cô cát ghét. Ghen là vì ở đâu đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.
(1) Hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ l0 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.
7-Học để kiếm gạo
(Phan Bội Châu, Lời hỏi các bạn thanh niên, 1928)
Đi học để kiểm gạo (1), tệ hại lớn lắm. Vì cốt kiểm gạo thời cái mục đích đã dở hoặc nhân vì mục đích đó mà sinh ra hay giả dối, hay tham lợi riêng, cốt được gạo thời thôi, đạo đức mà chi, hợp quần mà chi, ái quốc mà chi, trăm việc hỏng trớt (1) hiểu theo nghĩa rộng: chỉ cốt sinh lợi, có tiền.
8-Thị hiếu tầm thường
(Nguyễn Văn Vĩnh, Nhời đàn bà, Đăng cổ tùng báo, 1907)
Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm. Kia cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn vải tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn con phượng. Cầu quán con con, thuyền bé lý tí. Câu đối về tranh hết tứ thời phong cảnh lại đến thiên lý giang sơn (1). Thi họa nhỏ nhen, thi chẳng ra thi, họa chẳng ra họa. Giang sơn treo cửa sổ, sơn thủy để đầu giương. Hoành phi câu đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (2). Đồ chạm đồ cẩn thì tỷ mỳ con dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo. Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề. Nói tóm lại thì người Nam mình chưa cái gì là cái khéo. Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu càng xấu bấy nhiêu. Người mỗi ngày một hay, vi xảo (3) là thông ngôn ông tạo hoá. Ta mỗi ngày một đổ (4), vi xảo là cơn hứng chí điên cuồng. Học chẳng phải mà bắt chước cũng chẳng phải. Xảo nghệ kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hóa nghề lang lố (6).
(1) Cảnh sắc bốn mùa và núi sông. ngàn dặm, các mô-tlp đã trớ thành sáo mòn.
(2) “Phẩy mác” là tên gọi hai nét dùng trọng chữ Hán, đây ý nói chỉ có cái đẹp bế ngoài.
(3) Trình độ kỹ thuật.
(4) Kém đi hỏng đi.
(5) Đây hiểu là quan niệm.
(6) Nghĩa như nhố nhăng.
9-Thời gian phí phạm
(Phan Khôi, Cái đồng hồ của người Việt Nam, Phụ nữ tân văn, 1931)
Trong tiếng ta có một lời mà người ta hay dùng là „cơm vua ngày trời,” tỏ ra ý ăn hết chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì làm, không bị hạn chế và thôi thúc chi hết. Lại có thành ngữ “làm việc quan” là làm việc rồi (1)… Phải, phàm kẻ làm việc quan không bị hạn chế thôi thúc thì tội gì làm đúng đắn làm kịp thời vụ làm chi! Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không có đồng hồ.
Chẳng những vì khoa học không ưa nên không làm được đồng hồ, mà chính vì cái quan niệm “cơm vua ngày trời” và “làm việc quan” ấy nó choán sẵn trong đầu rồi, không có sự cần nên không làm đồng hồ được.
Có người đeo cái đồng hồ không chạy, máy ở trong đã hư hết, nhưng vì nó đẹp nên cũng đeo cho có với người ta. Ta chưa nhìn rõ cái giá trị thật của thời gian là thế nào.
(1) Làm qua loa cho xong. “Rồi” ở đây như chữ “rồi” trong “ăn không ngồi rồi.”
10-Không lo xa, dễ thỏa mãn
(Lương Dũ Thúc, Báo Nông cổ mìm đàm, 1902)
Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng thở than, trong lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữ. (…) Người nước của chúng ta, bởi không từng trải ít thấy rộng ít nghe xa (…) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí (1) thì là đổi tính đổi nết, làm bề làm thế (2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bới làm sao vậy? Bởi trong trăm người mới có một, thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã đặng trên mấy bợm (3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người thiếu nợ mình rồi, cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn khổ sở lại… Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời sinh mình sao mà vận xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.
(1) Khá giả một tí.
(2) Làm dáng, khoe mẽ.
(3) Bợm đây không có nghĩa xấu mà chỉ nghĩa bọn khác, kẻ khác.
11-Tầm nhìn hạn hẹp
(Phan Bội Châu, Việt quốc sử khảo, 1908)
Tục ngữ có câu rằng “cọp chết để da, người chết để tiếng.” Xem câu nói đó thời danh vẫn nên quý. Nhưng tội tình thay! Óc ti ti như óc dơi, mắt ti ti như mắt muỗi, ngoài buồng the, bếp núc, vẫn không biết gì là nước non, trừ sọ bò đầu heo, vẫn không biết gì là rồng rắn. Huống chi vết xấu ở gia đình, thói hư ở xã hội, gắn sâu buộc chặt trải mấy nghìn năm, đoàn thanh niên cho đến phường tân tiến (1), đua tranh danh giá, chẳng cu-li thượng đẳng thời nô lệ quá ưu, miệng chưa ráo sữa đã lóc lẻm những thẻ bạc bài ngà, ức (2) chưa rời nôi mà ao ước những mề đay kim khánh. Ôi! Thế là vinh danh hay sao? Quý hóa hay sao?
(1) Đoàn thanh niên đây chỉ thế hệ trẻ, còn phường tân tiến trong xã hội Việt Nam đấu thế kỷ XX là lớp người đi theo xu thế Âu hóa.
(2) Ngực.
12-Không biết giữ chữ tín
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, 1908)
Không giữ chữ tín thì anh lừa tôi, tôi lừa anh, trăm chuyện sẽ nát, tinh thần xã hội tan rã (…) Bất tín lớn nhất: một là dối trá. Nhiều người nước ta vụng trong đường mưu sinh (1) nhưng lại giỏi dối trá giả mạo. Hai là bội ước các quy chế, chương trình, mà lại làm ra vẻ tuân hành: Nói mười không giữ được hai ba; Ngay khi ký quy ước đã không cố ý thực hiện, cứ ký bừa, bất kể sau này ra sao. Cho nên quy ước chưa ráo mực mà như đã bỏ đi: Còn như ước miệng (2) thì chỉ là “nói láo mà chơi nghe láo chơi” (. ..) Những thói xấu ấy đầy rẫy mà cứ điềm nhiên không cho là quái gở.
(1) Kiếm sống.
(2) Thỏa thuận miệng.
13-Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã lo phá
(Trần Chánh Chiếu, Lục tỉnh tân văn, 1908)
Nước nào cũng có gian giảo, Tây, Nam, Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu. Song nước ngoài người ta gian khéo xảo lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói giác thể (2) như một nguời Chệt kia lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo làm ra té lời cho nhiều, có gian lận thì lấy trong cái tiền lới ấy, chứ không khi nào đụng toi vốn bao giờ. Họ tính như 100đ (*) mà làm lợi ra 0,30đ (*), dầu có gian, chủ có hay cũng giám mà cho gian. Còn người nước Nam không phải vậy, cứ guốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ (*) đã phá tán cho lỗ lã, rồi cứ cái vốn lấy hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0,50đ (*) cũng gian, 0,30đ (*) cũng gian, làm sao mà không háp tiệm (3) Chuyện gì hồi lãnh coi công việc bần hàn ăn mắm muối, vợ rách con đói, chứng lãnh việc rổi, vợ đeo vòng con đeo vàng,chồng giầy vợ dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp, chồng trai gái đào đĩ, sắm giường sắm màn riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng họ (5) đến tiệm mà ăn phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay ra đi buôn thì không khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy!
(1) Chệt (có khi viết Chiệc): người tàu, Chà: người Mã Lai hoặc Ấn Độ, còn Tây và Nam, tức người phương Tây và người Việt.
(2) Ví dụ.
(3) Cũng như sập tiệm.
(4) Liên tục, dồn dập.
(5) Chi họ, dòng họ.
(*) Các con số này lần lượt là: 1 đồng, 3 hào, 10 đồng, 5 hào.
14-Nhìn đâu cũng thấy sự tầm thường về trí tuệ
(Ngô Đức Kế, Cảm tưởng trong lúc biên tập, báo Hữu thanh, 1923)
Đến với các bậc tân nhân vật (1) để nghe nóng một đôi điều về đường học vấn thì phần nhiều chỉ nghe bàn đến vấn đề lương ít, lương nhiều, không thì mũ, giầy, đồng hồ xe đạp, mốt nào khéo, mốt nào mới, mày mua hiệu nào tao gửi bên Tây, không thì con bé nọ, con bé kia, món này mày, món kia tao, thế thôi. Đến các nhà buôn bán, thì ra những Công ty to nhỏ thập hiệu (2) lớn, vận hàng chở hóa, kẻ vào người ra chen vai kề cánh, chẳng hiệu chú khách thì hàng ông Tây, còn hàng An Nam thì chỉ là buôn lẫn bán quanh, mình cạnh tranh với mình, không những không cạnh tranh lợi được với kẻ ngoại phương (3), mà lại còn nói dối bán lừa, chưa khỏi thói mua hành bán tỏi.
Thứ đến các nhà chế tạo (4) thì chẳng thấy khói lên không nghe máy động, các đồ thủ nghệ cũng có tiến bộ, song các nguyên liệu phải nhờ vào người cung cấp mà vật chế tạo không chở được ra ngoài dương (5), đồ sản xuất mà có đường tiêu thụ không, người làm càng nhiều thì nghề càng không, hết mồ hôi nước mắt chỉ đủ “tay vó miệng lẩm” (6).
(1) Tức các nhân vật đào tạo theo kiểu phương Tây.
(2) Chưa rõ nghĩa.
(3) Người nước ngoài.
(4) Các nhà sản xuất.
(5) Tức xuất khẩu.
(6) Tương tự “tay làm hàm nhai.”
15-Nhắm mắt bắt chước điều không hay của cổ nhân và ngại thay đổi
(Dương Dũ Thúc, báo Nông cổ mìn đàm, 1902)
Người nước chúng ta sự tính lợi hại xét hơn thua không rõ, cứ người sau thì làm theo những điều người trước hay làm. Bởi vậy cho nên cả nước giàu không đặng giàu nhiều, nghèo thì nghèo đến đỗi không áo không quần mà thay, rồi mỗi mỗi cứ đổ lỗi cho trời cho số, cho ngày sinh tháng đẻ. Cổ đạo (1) là những lẽ phải; có vua tôi, có cha con, có anh em, có vợ chồng, có bạn hữu; nếu người nay mà trái những điều đó mới mang tai (2). Chớ ví như đổi tục gian ra ngay, tục làm biếng ra siêng, đổi dối ra thiệt, tục nghịch ra thuận, tục ngu ra trí, tục hèn ra sang, tục dơ ra sạch, tục vụng ra khéo, tục trược(3) ra thanh, đổi như vậy thì là phải lắm. Xin hãy coi gương người dị quốc (4), hoặc phương Đông phương Tây, phương Nam cùng phương Bắc, người ta thường hay đổi hay sửa, ít bắc chước những điều tệ của người trước; bởi vậy nay người ta thanh lịch lắm. Nếu mà cứ theo tục sai không đổi thì quả là khờ và bị thiệt hại.
(1) Đạo lý cổ truyền.
(2) Chịu những điều khốn khổ, có hại.
(3) Trược tức là trọc, có nghĩa là đục, không trong sạch.
(4) Người các nước khác.
16-Trí túc và Hiếu cổ
(Quốc dân độc bản – tài liệu do Đông Kinh Nghĩa Thục soạn, 1907)
Dân ta đại để bảo thủ mà không biết tiến thủ. Sở dĩ bảo thủ một là do trí túc, hai là do hiếu cổ (1). Thường thường cho rằng quê mùa chất phác là hay, lặng lẽ rút lui là cao thượng, không biết rằng như vậy là chỉ muốn ăn chơi lười biếng. Đó là tri túc làm trở ngại cho chí tiến thủ. Không biết rằng thế đạo (2) ngày một suy, mà lại than thở phong tục xưa không được phục hồi. Lòng hiếu cổ ấy trở ngại cho chí tiến thủ.
(1) Trí túc: biết thế nào là đủ; hiếu cổ; ưa thích những gì đã có từ xưa.
(2) Đạo sống ở đời.
17-Cái gì cũng đổ tại trời
(Quốc dân độc bản, 1907)
Thuyết mệnh trời làm cho dân ta bị trở ngại. Nước yếu không quy trách nhiệm cho chính sự tồi tệ, quốc dân bất tài, mà lại nói vận số không phải do người quyết định. Lụt lội hạn hán không trách cứ là không có kế hoạch tiêu nước kịp thời, không phòng ngừa đói kém mà lại nói thiên tai không phải do người gây nên. Dịch bệnh lan tràn thì nói con người sống chết có số, đề phòng cũng vô ích. Cùng làm một nghề, kẻ thành người bại, cũng lại nói họ gặp may, ta gặp rủi.
Than ôi! Sao lại có cách nói tự hại mình đến thế?
18-Dân khí bạc nhược
(Phan Chu Trinh – Thư gửi Chính phủ Pháp, 1906)
Nước Nam độ bốn mươi năm nay, vận nước ngày một suy, suốt từ trên đến dưới chỉ biết chuyện lười biếng vui chơi. Pháp chế luật không còn có cái gì ra trò, nhân tài cũng tiêu diệt đi mất cả. Người trên thì lâu lâu được thăng trật (1), chẳng qua như sống lâu lên lão làng; người dưới thì đem của mua quan, thật là tiền bạc phá lề luật. (…). Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma như quỷ, lừa gạt bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn như bò, giẫm cổ đè đầu, cũng không dám ho he một tiếng.
(1) Trật: cấp bậc phẩm hàm.
19-Pháp luật đơn sơ
(Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông Kinh nghĩa thục, 1907)
Dân trí càng mở mang thì pháp luật càng phải tinh tế. Luật lệ nước ta sơ sài hết sức. Những điều rõ ràng thì hoặc là phiền toái vô dụng, hoặc là khe khắt quá khó lòng giữ đúng (…) Những điều ta nói ta làm hàng ngày mà theo luật quy tội, thì sáng bị tội đồ, tội lưu, chiều bị tội phạt trượng. Đến những điều đáng phải theo cũng không thể theo được. Trên cũng như dưới đều mơ mơ màng màng, cơ hồ thành một nước không có pháp luật. Dân không giữ chữ tín, trong dân gian người ta làm khế ước với nhau, thường mực chưa khô đã bội ước. Quy tắc của trường học, kế hoạch của công sở phần lớn nằm trên giấy, treo lên cho vui mắt, đọc lên cho vui tai mà thôi. Trên dưới không tin nhau, mà mong giữ đúng pháp luật thì thật là khó thay! Đã không giữ được thì thay đổi đi là hơn.
20-Làm ra vẻ yêu nước để mưu lợi riêng
(Phan Bội Châu – Cao đẳng quốc dân, 1928)
Chứng bệnh hay giả dối là chứng bệnh chung của người nước ta mà ở trong lại có một chứng đặc biệt là chứng ái quốc giả… Nào đám truy điệu, nào tiệc hoan nghênh, nào là kỷ niệm anh hùng, nào là sùng bái chí sĩ, chuông dồn trống giục, Nam hát Bắc hò, xem ở trong một đám lúc nhúc lao nhao, cũng đã có mấy phần người biết quyền nước đã mất thì tính mạng không còn, hồn nước có về thì giang sơn mới sống. Nếu những tấm lòng ái quốc đó mà thật thà chắc chắn thì giống Tiên Rồng chẳng hạnh phúc lắm sao? Nhưng tội tình thay, khốn khổ thay, người ưu thời mẫn thế chẳng bao nhiêu mà người rao danh thì đầy đường đầy ngõ. Giọt nước mắt khóc nước vẫn ngày đêm chan chứa mà xem cho kỹ thì rặt nước mắt gừng; tiếng chuông trống kêu hồn vẫn trong ngoài gióng giả mà nghe cho tới nơi thì rặt là chuông trò trống hội; ngoài miệng thì ái quốc mà trong bụng vẫn là kim khánh mề đay; trước mặt người thì ái quốc mà đến lúc đếm khuya thanh vắng thì tính toán những chuyện chó săn chim mồi. Cha ôi! Trời ơi! ái quốc gì, ái quốc thế ư? Đeo mặt
nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời mua chuốc lấy tiếng chí sĩ chân nhân, một mặt thì ôm chặt lấy lốt ông tham bà đốc.
21-Học đòi làm dáng một cách sống sượng
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đăng cổ tùng báo, 1907)
Cứ chiều đến, độ sáu bảy giờ, đứng ở góc hồ Hoàn Kiểm, trông kẻ đi qua người đi lại, thấy ngứa mắt quá. Nhăng trông mấy ông ăn mặc quần áo Tây. Gớm! Sao mà khéo bắt chước, giả sử sự học hành, sự buôn bán mà cũng bắt chước được khéo thế thì hay quá! Ông cổ cồn trắng, cổ nút xanh, nút đỏ, đầu thì mũ cỏ, tay thì ba toong, giày thì bóng nhoáng, hai ngón tay thì khéo gẩy gẩy cái nách áo gi-lê. Ông ngồi xe thực khéo lấy dáng. Ngày xưa cái ô lục soạn, cái điếu thuốc lá bọt. Nay những cái ấy đã cho là đồ cũ rồi. Cái xe Nhật Bản bây giờ cũng bỏ. Bây giờ có xe cao su, êm hơn mà ngồi ưỡn ra bệ vệ hơn nhiều. Tay cần quyển sách hay là cái nhật trình (1), mắt giả lờ trông thì lại ra tuồng (2) nữa. Em (3) thực là người hiếu sự duy tân. Cách ăn mặc An Nam đội cái khăn bằng cái rế, búi tóc như quả bưu, áo lướt tha lướt tư ướt, giày lẹp cà lẹp kẹp, móng tay gãi đầu như người rũ chiếu thì cũng bẩn lắm thực. Em cũng muốn rằng người An Nam ăn mặc cho gọn gàng sạch sẽ diện mạo tinh nhanh, nhưng mà thấy những trò sài sơn (4) của các ông cũng ngứa mắt lắm.
(1) Báo ra hàng ngày.
(2) Trông có vẻ phường tuồng.
(3) Bài này ký tên Đào Thị Loan là một trong những bút hiệu của Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi in trong mục “Nhời đàn bà,” nên xưng “em”
(4) Ăn diện.
22-Cái hay của người không biết học
(Nguyễn Trọng Thuật – Điều đình cái án quốc học, Nam Phong, 1931)
Từ Lê Hồng Đức bắt đầu gieo cái mầm cẩu thả, rồi Mạc Trịnh lại càng tài bồi cho thành cái rừng cẩu thả. Cẩu thả nên toàn mô phỏng, mô phỏng thì không còn biết biến hóa nữa. Như người học vẽ tranh mà làm cách lồng phóng hay là can-ke thì thế nào cũng không đúng. Kỳ cạch mãi càng không đúng, bấy giờ khoanh tay lại lắc đầu lè lưỡi mà rằng “Bức vẽ mẫu là thiên tài trời đã định, mà mình là bất tài trời đã định…” Bấy giờ dẫu có ai hoán anh cho biết cũng không tin, có ai biệt sáng biệt lập (1) cái gì cũng không thèm ngó tới.
(1) Sáng tạo.
23-Óc sùng ngoại lại quá nặng
(Nguyễn Trọng Thuật – Điều đình cái án quốc học, Nam Phong, 1931)
Anh thợ vẽ cầm lấy cái bút là vẽ ngay phong cảnh Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự; thày đồ tìm đến cái bút là tả ngay lịch sử Hán Cao Tổ Trương Lương Hàn Tín; anh phường tuồng ra trò là diễn ngay tấn Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Thổ sản thổ hóa mà hễ cái gì tồi thì cho một tiếng “nam” vào để giễu, như cái áo tơi gọi là áo cừu nam sột soạt, anh chàng dở người mà hay bàn thời thế họ gọi là Gia Cát nam. Cái gì tốt thì cho một tiếng “tàu” vào để khen, như măng khô gọi là măng tàu. Ấy cũng vì tư tưởng đã thiên di như thể, những nhà chế tạo nội hóa rất khốn khổ, đồ tốt không bán được phải thất nghiệt, mà những đồ thô bỉ tầm thường thì may còn ngoi ngóp sống để kiếm ăn với những người quê mùa nghèo khó.
24-Tính ỷ lại
(Phan Bội Châu – Cao đẳng quốc dân 1928)
Tục ngữ có câu rằng:
“Tháp đổ đã có Ngô xây
Việc gì vợ góa lo ngày lo đêm.”
Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao? Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng, nếu Ngô không sang thì vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, nghiễm nhiên một đống bù nhìn rồi hẳn. Hỏi vì cơn cớ làm sao? Thì chỉ vì ỷ lại.
Câu tục ngữ ấy thật vẽ đúng tâm tình người nước ta. Nếu ai cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của mình thì có gánh gì không cất nổi. Nhưng tội tình thay, anh nào chị nào trong óc cũng chất đầy một khối ỷ lại. Anh Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường trông mong vào thím Lục, mà chú Kèo, thím Lục lại ỷ có anh Cột, cô Hường rồi. Rày lần mai lữa, kết cục không một người làm mà cũng không một người phụ trách nhiệm.
25-Quá tin ở những điều viển vông
(Phan Bội Châu – Cao đẳng quốc dân 1928)
Mê tín sinh ra những việc nực cười. Ngày giờ nào cũng là trời bày định mà bảo rằng có ngày dữ ngày lành; núi sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu; vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng có ông thần táo; vì che mưa gió mà có nhà mà bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần; kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát nhà tan, của mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu…
26-Tư tưởng gia nô
(Phan Bội Châu – Cao đẳng quốc dân 1928)
Xem lịch sử nước ta tư xưa đến nay hơn ba nghìn năm, chỉ có gia nô mà không có quốc dân. Quyền vua có nặng, nặng không biết chừng nào; gia dĩ (1) quyền quan lại hứng đỡ quyền vua mà từng từng áp chế. Từ cửu phẩm kể lên cho đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép càng nặng, đến dân là vô phẳng thân giá (2) lại còn gì. Thằng này là con ngựa thằng nọ là con trâu buộc cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào thì cúi đầu cứ lủi . Gặp Đinh thì làm nô với Đinh, gặp Trần thì làm nô với Trần, gặp Lê Lý thì làm nô với Lê Lý.
Phận con hầu thằng ở, được đôi miếng cơm thừa, canh thải, đã lấy làm hớn hở vênh vang; tối năm (3) đứng đầu ruộng mới được bát cơm ăn, suốt đêm ngồi bên bàn khung cửi mới được tấm áo mặc, mà mở miệng ra thì “cơm vua áo chúa”; đồng điền này, sông núi nọ mồ hôi lẫn nước mắt cày cấy mở mang, nhưng mà “chân đạp đất vua,” lại giữ chặt một hoạt kê vô lý (4). Cái tư tưởng gia nô! Cái trí thức gia nô! Bệnh gia truyền làm nô đó không biết tự bao giờ để lại, bắt ta phải gông đầu khoá miệng, xiềng tay xiềng chân, chịu gánh gia nô cho già đời mãn kiếp.
(1) Thêm vào đó.
(2) Giá trị con người.
(3) Quanh năm.
(4) Đại ý: Tự mình làm ra mà lại bảo là do ơn người khác, thật là câu chuyện buồn cười.
27-Cái tánh di truyền của dân tộc ta
(X.T.T. Tiếng Dân, số 179, ngày 15-05-1929)
Trong mục “Lật chồng báo cũ” chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu với độc giả trích đoạn các bình luận về đạo đức xã hội của các nhà văn hóa thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945 trên các báo chí công khai.
Trước hết là một số bài của báo Tiếng Dân do nhà yêu nước Huỳnh Thúc Kháng làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Số 1 của báo ra ngày 10-08-1927. Sau khi ra số 1966 ngày 24-04-1943, báo Tiếng Dân đã bị nhà cầm quyền đình bản.
Tức như hiện trạng xã hội ta ngày nay, thử hỏi cái tánh di truyền từ thuở này ở đâu, thì không biết tìm vào đâu, mà nói đến cái xấu thì hiện trên thế giới đều lấy mình làm gương. Xin kể mấy điều về hình di truyền của người mình như sau này:
Một là học để làm quan. Người sinh ở đời có học mới khôn, có khôn mới làm hết được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi. Thế mà người mình có cái tánh di truyền “đi học cốt để làm quan!” vì cái tánh đó, cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học, phép thi đổi ra cách mới, càng chiến thương chiến, giặc tới bên chân, mà người đi học trong nước vẫn ôm lấy cái hy vọng “làm quan” là chú chốt.
Hai là, làm quan ăn lót. Người mình mà có cái hy vọng làm quan không phải vì ra mà kinh bang tế thế đặng ăn lộc nước mà thôi đâu, cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi riêng nữa, vì thế nên làm quan mà ăn của dân, cho là cái quyền lợi tự nhiên mình được hướng, tập dữ tánh thành, không ai cho là điều quái lạ hổ thẹn nữa.
Ba là, a dua người quyền quý. Theo thời đại chuyên chế, ông quân chú là thần thánh bất khá xâm phạm, lần lần rồi đến những chân tay đầy tớ của ông cũng không ai dám động đến. Ngu dốt mà cũng xưng là thông minh, bạo ngược mà cũng tán răng nhân đức. Dầu cho ké nào có dựa được một chút quyền vị nọ mà đứng vào cái địa vị, dân cũng không dám nói đến. Tham nhũng đến đâu mà cũng phô rằng thanh liêm, hèn mạt đến đâu mà cũng tôn làm tài đức. (Thử xem mấy bài tấu, sớ, biểu, chương của đám quan trường, cùng những đơn nguyện lưu các phú huyện, thì gần như trong đời không có ông hôn quân cùng kẻ tham lại nào, mà thuần là thần thánh tài năng cả).
Vì cái tánh đó di truyền đã lâu, cho nên bất kỳ việc gì, người ra thế nào, đã là quyền quý thì cứ nhắm mắt tán dương. Thói này thì ngày nay lại thịnh hơn ngày xưa” vì không cần phải vua quan mà thôi, xem những tiếng “vạn tuế” cao xướng hàng ngày thì đủ biết! Bốn là, trọng xác thịt. Vì trọng xác thịt, nên ngoài sự án sung mặc sướng, ở yên ra, gần như không có tưởng gì nữa, tự mình đã thế mà đối với kể khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét, nghĩa là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn thì sinh lòng hâm mộ muốn bắt chước theo, dầu có hại nòi nát giống, mắng mẹ đạp cha, mà đạt được mục đích thì cũng không từ. Những điều như thế kể ra không xiết, nếu những điều xấu cũ cứ một mực thịnh hành, mà không có cái gì ngăn ngừa, lại thêm cái văn minh xu xác thế lực kim tiền noi theo mà thối giục lên nữa, thôi thì lửa nọ được dầu, sóng kia thuận gió, không những quét sạch bao nhiêu tánh di truyền tốt của ông bà ngày trước, mà còn có thể cuốn cả hai mươi triệu đồng bào ta xoay vào cái rốn biển trầm luân mà không sao ngóc đầu dậy được Ai mà nói rằng cải lương, xưng rằng tiến bộ, xin trước nhất bắt đầu từ chỗ cái tánh di truyền của ta mà phù thực điều tốt bỏ hẳn điều xấu rồi mới nói đến chuyện khác.
28-Tùy tiện, cẩu thả trong giao lưu, tiếp xúc
(Phan Chu Trinh, nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp, 1912)
“Xét nước ta đời thụ phong Trung Quốc chỉ là chính sách ngoại giao cho nên coi là trò chơi, không coi là vẻ vang. Kẻ lấy Trung Quốc làm ỷ lại, ắt là vào thời cuối (1): Vua nhác, tôi nịnh, binh bị không sửa sang, coi họ như cha mà quên điều nanh ác. Thời cuối các đời Trần, Lê đều có, mà triều ta (2) lại càng nhiều. Sứ thần ngày xưa làm nhục được người Trung Quốc coi như vinh dự. Những kẻ đi việc sứ đời sau lấy việc được một bài thơ, bài văn, một lời than, tiếng cười của sĩ phu Trung Quốc trở về để khoe khoang với bạn bè làm vẻ vang. Mặt này lại là một điều suy sút của sĩ phu nước ta.
(1) Tức giai đoạn suy tàn của một triều đại.
(2) Triều ta đây tức là nhà Nguyễn.
29-Thạo sử người hơn sử mình
(Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu, 1914)
Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và nòi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao. Tồ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ – phát nguyên từ nơi nào.
Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả. Lại còn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đã không chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)… chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí não của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ (3) mà thôi.
(1) Các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới xin…
(2) Hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn.
(3) Tức lịch sử Trung Hoa.
30-Ai cũng học mà chẳng học ai cả
(Ngô Đức Kế, Nền quốc văn – Tạp chí Hữu Thanh, 1924)
Người nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý đối với việc học là học mà đi thi, đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi. Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo Khổng, song đó là vì học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải vì tôn sùng mà phải học. Cho nên ngày trước triều đình thì Hán tự thì người mình lo học Hán tự để lấy ông cử, ông nghè. Ngày nay Chính phủ bảo hộ thi Pháp văn thì người mình lo học Pháp văn để lấy ông tham ông phán…
31-Không có can đảm là mình
(Nguyễn Duy Thanh, Muốn cho tiếng An Nam giàu, báo Phụ nữ tân văn, 1929)
Ông Dorgelès trong quyển “Con đường cái quan” có nói đến thói hay bắt chước của người mình. Đại khái ông nói rằng: “Ngày xưa người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều nhất nhất theo Tàu cả. Nay người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm, mà nhà cửa đã theo Tây thời rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô khan, hình như phải dịch tiếng mình ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào thì lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi màu da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn.”
Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng phải.
… Người viết văn phải có can đảm mà dịch những chữ nước ngoài ra. Mở đầu có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ Nguyễn Du không can đảm sao dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra chữ mặt sắt (1)… Mà cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân cẩu tang thương có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá mình nói “Bức tranh mây chó vẽ người bể dâu” (2) tất phần nhiều người cho là mách qué!
Người Tàu trước kia làm gì có những tiếng cộng hòa, cách mạng, cá nhân, vật lý học, kỷ hà học (3)… Vì lòng sốt sắng làm cho tiếng nước nhà giàu thêm lên, nên họ không ngại khó, rồi mới đặt ra được cái tiếng ấy. Người mình thì không thế. Muốn dịch một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng nước nhà mà không dịch nổi, thì cứ việc mở ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đã sẵn sàng cả rồi. Dù người Tàu có dịch sai chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến đó mà lo.
(1) Hai câu nguyên văn trong Truyện Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu” và “Lạ cho mặt sắt cũng ngây vi tình.”
(2) Một câu trong “Cung oán ngâm khúc”: “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”
(3) Tức hình học.
(4) Tức từ điển.
32-Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò
(Phạm Quỳnh, Bàn về quốc học, Nam phong, 1931)
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò! Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi… chưa mấy ai là rõ rệt có cái tư cách – đừng nói đến tư cách nữa, hãy nói có cái hy vọng mà thôi – muốn độc lập trong cõi tư tưởng cả. Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
(1) Suốt đời.
33-Học không biết cách
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Dương tạp chí, năm 1913)
Về đạo cương thường cứ nói rằng thâm nhiễm (1) của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều gì gọi là thâm nhiễm cả. Trong hết cả số người theo Nho học thì họa là có mấy ông vào bực giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bực nhoàng nhoàng thì thường cứ thấy người học cũng học, học cho thuộc cách mà thôi, chứ không có định trong bụng rằng theo những điều nào, kháp (2) đạo ấy vào tính tình riêng của người nước mình nó ra sao… Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức (3) đi, mà làm ra cả một pho luật mới chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình có, cho đến những điều mình không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng hồ đồ. Cương thường đạo lý toàn là giả dối hết cả, không có điều gì là có kinh có điển.
(1) Thâm nhiễm: ảnh hưởng sâu sắc.
(2) Kháp: tức khớp, ghép lại cho khít, cho phù hợp
(3) Bộ luật cổ của nước ta có từ thời Lê, tham khảo nhiều từ bộ luật đời Đường.
34-Chỉ học theo lối mòn
(Trần Trọng Kim, Nho giáo, năm 1930)
Về đường học thuật và tư tưởng thì xưa nay ta chỉ có mấy lối học của Tàu truyền sang: trong đời nhà Lý và nhà Trần thì sự học của ta theo lối huấn hỗ (1) của Hán nho và Đường nho, rồi từ đời Lê về sau thì theo cái lối học của Tống nho. Ta chỉ quanh quẩn ở trong phạm vi của lối học ấy chứ không thoát ly được mà sáng lập ra cái học thuyết nào khác. Phần nhiều người trong nước lại có cái tư tưởng rằng những điều thánh hiền nói ở trong các kinh truyện đã đủ hết cả rồi, không ai biết được hơn nữa, cho nên kẻ học giả chỉ chăm chăm theo cho đúng những điều ấy mà tiễn lý (2) thực hành, chứ không ai để ý mà tìm cho đến cái chân lý nó thường lưu hành biến hóa. Cũng có người đạt tới chỗ uyên thâm của Nho giáo, song những người ấy lại cho rằng cái học sâu xa là tự mình phải lý hội (3) lấy chứ không thể lấy văn từ ra mà tuyên bố được. Bởi vậy các tiên nho ở ta chỉ làm văn thơ để tả cái tính tình của mình mà thôi, không hay làm sách vở để phát minh tư tưởng. Kết quả thành ra cái học Nho giáo thì rộng khắp cả nước mà cái học thuyết thì không thấy có gì là phát minh vậy.
(1) Lối học bám vào từng chữ để giải thích.
(2) Tiễn ở đây là noi theo; tiễn lý là theo cái lý vốn có.
(3) Hiểu.
35-Giỏi bắt chước, thiếu sáng tạo
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938)
Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải là người quan sát và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỏi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật dụng công…
Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam tuy có tính chất lưu động(1) và phiền phức (2), nhưng thiếu hẳn hoạt khí (3), cách biến hóa chỉ ở trong phạm vi hình thức…
(1) Theo ngôn ngữ thời nay, tức linh động, mềm mại.
(2) Rườm rà nhiều mối.
(3) Sức sống.
36-Những mâu thuẫn nội tại
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Nói chung người Việt có chất nghệ sĩ nhiều hơn chất khoa học. Nhạy cảm hơn là có lý tính. Yêu thích văn học và trang trí. Đa số chỉ mơ ước nghề làm quan là con đường đã vạch sẵn, không đòi hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà lại đem đến nhiều vinh hiển.
Chẳng có mặt nào của tính cách người Việt lại không có mặt bù lại và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng ngược lại. Chúng ta đã nói vế tính biếng nhác và sự uể oải của người Việt, nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy, và những người lao động sẵn sàng làm những trong việc nặng nhọc trong khi chỉ nhận được số tiền công rẻ mạt đến như vậy.
Chúng ta cong đã nói về tính phóng túng bông lông và mơ mộng của người Việt. Thế mà chúng ta lại cũng dễ dàng khám phá ở người dân nơi đây một đầu óc thực tế lạ lùng, nó quyết định chiều hướng tâm hồn người nông dân và trở nên một vũ khí lợi hại trong tay những người thợ mỹ nghệ. Nếu tính hay thay đổi là đặc tính của người Việt thì ta cũng phải ngạc nhiên mà nhận xét rằng trong bọn họ có một số kẻ là những tay dai dẳng và bám riết người ta khi xin xỏ, là những kẻ sính kiện tụng không ai địch nổi, là những học sinh sinh viên quyết chí săn đuổi bằng được bằng cấp.
37-Phá hoại rồi bịa ra những thứ không đâu để thờ
(Vũ Ngọc Phan, Chuyện Hà Nội, năm 1944)
Ký vãng là ký vãng. Ngậm ngùi hay nhớ tiếc cũng đều là vô ích, nhưng đọc lại lịch sử Việt Nam, người ta không khỏi lấy làm lạ về cái tài phá hoại của người Việt Nam ta, một dân tộc vốn có tính thích duy trì cả những cái không đáng coi là quốc hồn, quốc tuý.
38-Khiêm nhường giả, kiêu căng thật
(Phan Khôi, Báo phổ thông, năm 1930)
Có sao nói vậy mới là ngay thật. Vẫn biết tự khiêm là một nết tốt, song làm người có sự tự tin thì mới ra người. Cái chỗ mình đã tự tin rồi mà nói ra không dám tỏ ý quả quyết, thì lại thành ra giả dụ, mất sự ngay thật đi.
(…) Người nước mình đã giả dối có tiếng, mà trong đám học thức, cũng lại giả dối quá người thường. Thật bụng thì kiêu căng tự phụ, coi người ta nửa con mắt, mà nói làm ra bộ khiêm nhường, theo lời tục nói, ở nhà như con tép. Cái sự tự khiêm giả dối ấy mỗi ngày một thêm lêm, làm cho sự tự tin mất đi, dần dần chẳng có ai dám chịu trách nhiệm trung việc gì hết, mà ai ai cũng thành ra hiền nhân quân tử hết, vì chỗ tự khiêm đó. Đó là cái bệnh di truyền mà Tống nho đã để lại.
39-Tự giam hãm mình trong lũy tre làng
(Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự, năm 1927)
Tục nước mình thường hay thiên trọng ở chốn hương thôn, quanh năm suốt tháng lẩn quẩn ở trong làng, chiếm được một chỗ ngồi nơi hương đảng đã lấy làm vinh dự, tranh nhau làm ông phó, tranh nhau làm ông xã, tranh nhau ăn trên, tranh nhau ngồi cao, chửi mắng nhau, đánh đập nhau, kiện tụng nhau. Cái câu “Hương đảng tiểu triều đình”(1) cùng “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp” luôn luôn ở cửa miệng. Có nhiều người hết cơ, hết nghiệp vì một việc tức khí nơi hương thôn. Có nhiều người khánh kiệt gia tài vì một bữa hương ẩm (2). Ngoài cái làng ra, không còn biết đến nước nhà là gì, thế giới là gì. Vì vậy mà tư tưởng cục cằn kiến văn chật hẹp. Mấy dãy tre nơi đầu làng đã là cái khám nhốt người ta rồi. Không những không có người nào ra ngoại quốc học tập làm ăn, mà ngay đến trong nước, mỗi tỉnh mỗi xứ cũng coi như một thế giới riêng.
(1) Làng xóm là một triều đình thu nhỏ.
(2) Cuộc ăn uống mời gần như cả làng.
40-Kéo bè kéo cánh nắm giữ quyền lực
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Xét cách bầu cử tổng lý của ta khi xưa thật lắm phiền nhiễu mà phần nhiều dùng cách tư tình (1), những người làm việc chẳng qua lại.là con cháu họ hàng với những chức sắc kỳ mục. Trừ ra những làng khó khăn không ai muốn làm không kể, còn về các làng tốt bổng (2), con cái nhà có thế lực tranh nhau mà ra, có mấy khi lọt vào tay người khác được. Vì thế lý dịch hay có bè đảng, mà nhất là hay a dua với hàng kỳ mục (3) để dễ cho sự thầm vụng của mình.
(1) Tức sử dụng những mối quan hệ cá nhân.
(2) Có nhiều quyền lợi.
(3) Kỳ mục là những người có thế lực nói chung, còn lý dịch là những người đương làm việc, đương nắm quyền.
41-Đám đông chỉ chờ kiếm chác
(Vũ Văn Hiền, Mấy nhận xét nhỏ về dân quê Bắc Kỳ, Thanh Nghị, năm 1944)
Việc làng thường định vào những ngày tuần tiết, là những ngày ở đình có tế lễ và ăn uống. Khi nào có việc gì khêu gợi sự cạnh tranh và đụng chạm đến những quyền lợi có sẵn thì số người ra họp rất đông. Còn khi nào chỉ họp để dự định công việc mới mê nhưng chưa ai thấy lợi trực tiếp cho mình thì buổi họp rất vắng. Nhiều người chỉ ra tế lễ ăn uống rồi về mà cũng chẳng có lề luật nào định phải có bao nhiêu người dự bàn mới là đủ.
42-Cường hào lý dịch gian giảo điêu ngoa
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Công việc trong làng, trên thì tiên chỉ không muốn nhìn đến, dưới thì phường lý dịch chẳng qua cũng là con em đầy tớ các kỳ mục, há miệng mắc quai nón. Quyền hành của kỳ mục rất lớn, thế lực rất to. Mà trong hạng này, một hai người phi tay cường hào hách dịch, thì là tay gian xảo điêu ngoa, còn nữa chẳng qua a dua về mấy người ấy mà thôi. Phần nhiều ích kỷ, họ có thiết gì đến vận dân, chỉ động có chút lợi lộc thì xâu xé nhau hoặc dân đàn em hơi có chút gì lầm lỗi thì bới móc hạch lạc. Những người có kiến thức, cho việc hương thôn là việc nhỏ nhặt, không thèm tưởng đến, không mấy nơi cải lương được tục làng, cho nên tục hay.
43-Người dân quen sống cẩu thả
(Ngô Tất Tố, Thời vụ, năm 1938)
Dân ta xưa nay chỉ quen sống “sau lũy tre xanh,” không thạo cách hội họp. Vả lại về tinh thần lại hay có tính cẩu thả, sống được là may, học hành mà làm gì… đó là những câu họ thường trả lời cho ta khi ta khuyên họ nên học cho biết.
44-Làng xóm “quân hồi vô phèng,” không ai bảo được ai
(Vũ Văn Hiền, Mấy nhận xét nhỏ về dân quê Bắc Kỳ, Thanh Nghị, năm 1904)
Làng ở xứ ta như một hội riêng của tư nhân. Nếu cái đặc tính của một pháp nhân cai trị (1) là quyền ban hành những nghị định có ý nghĩa cưỡng bách, buộc mọi người thi hành, thì làng xứ ta quả không phải là một pháp nhân cai trị.
… Muốn đắp một con đường ư? Quyết định năm nay, nhưng có nhẽ rồi một hai năm sau mới làm xong, mỗi họ mỗi thôn mỗi gia đình ung dung tiện lúc nào thì làm lúc ấy. Muốn đào một giếng nước ăn ư? Nếu người khởi xướng ra việc đó không can đảm đứng ra mà đốc thúc thì dân làng cứ chịu khó ăn nước ao mãi. Hội đồng làng xã đặt lệ cấm đổ rác ra đường cái ư? Nếu không có một mối hiềm thù riêng từ trước, thì không một chức dịch nào thấy mình có trách nhiệm là ngăn cản hay trừng phạt người làm trái lệ ấy.
Thường thường những cuộc bàn cãi trong những buổi họp việc làng không dẫn đến một kết quả thiết thực gì cả.
Biết bao nhiêu luật lệ của cơ quan cai trị đã bị xếp bỏ không thi hành được chỉ vì một vài người không muốn nghe theo.
Chỉ cần một kẻ phản đối cũng đủ làm cho điều đề nghị hay đến đâu cũng phải gác bỏ. Mà ở làng nào cũng có vài viên kỳ mục, vài người bướng bỉnh, bao giờ cũng giữ thái độ phản đối: Hoặc vì họ thấy công việc sẽ làm không trực tiếp lợi cho họ, hoặc vì họ ghét người khởi xướng ra công việc ấy hoặc vì họ nghĩ rằng người khởi xướng định bới việc ra để ăn – điều nghi kỵ sau này, tiếc thay, nhiều khi cũng đúng.
(1) Kẻ có tư cách pháp lý.
45-Dân quá sợ quan
(Phạm Quỳnh, Phụ mẫu dân hay công bộc dân, Nam Phong, năm 1926)
Một cái thiên kiến rất trái ngược với đời nay và hiện còn phổ biến trong dân gian lắm, là cái thiên kiến coi quan là dân chi phụ mẫu, sợ quan như sợ cha mẹ, sợ thánh thần. Bởi dân sùng phụng mê tín quan như thế, nên quan mới có kẻ tác ác tác hại được như thế.
Cũng bởi dân sùng phụng mê tín quan như thế nên kẻ nào chưa được quan thì cậy cục cho kỳ được, kẻ nào đã được quan thì hết sức mà giữ lấy, củ quốc (1) xô đẩy nhau về một đường ấy, ngoại giả không còn có học vấn, không còn có tư tưởng, không còn có sự nghiệp, không còn có công danh gì nữa, bao nhiêu cái khôn cái khéo chỉ dùng để ăn quẩn lẫn nhau, diễn ra trong xã hội một cái bi kịch có thể gọi là “gà què ăn quẩn cối xay.”
(1) Củ: chữ Hán, nguyên nghĩa là kết hợp lại. Củ quốc như ngày nay nói cả nước.
46-Việc quan hỗn hào lẫn lộn
(Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng, năm 1939)
Các cụ ngày xưa quá tin vào sự nhiệm màu của đạo Khổng. Họ tưởng rằng lầu thuộc Tứ thư, Ngũ kinh, học hết mấy pho sử, làm được câu thơ bài phú là có đủ đức hạnh để dạy dỗ dân, đủ tài kinh luân để đưa dân đến cõi hạnh phúc. Họ tướng rằng đã là sĩ phu, thì là một người hoàn toàn, một đấng thánh hiền, nên họ mới phó thác cho trách nhiệm quá nặng.
Những quyền hành lớn ấy, từ xưa đến nay, quan trường vẫn nắm trong tay, tuy rằng cuộc sinh hoạt của dân chúng đã đổi thay nhiều lắm. Một ông huyện chẳng hạn, không biết rằng chức phận của mình là phải làm những việc gì nữa. Ông ta là một ông quan toà lúc xử việc kiện tụng, một ông cẩm (1) lúc coi sóc việc trị an, một viên chức sở lục lộ (2) lúc thúc dân hộ đê… Đó là không kể cai trị là công việc chính của ông ta. Bấy nhiêu nhiệm vụ hỗn hào lẫn lộn là một điều khó khăn cho ông quan mà cũng là cái mầm cho sự lạm quyền. Và đối với những ông quan không theo đuổi một lý tưởng gì cao siêu, đó lại là một cái mầm cho sự ăn tiền.
(1) Cảnh sát.
(2) Sở giao thông.
47-Đã thành bia miệng trong dân
(Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự, năm 1927)
Khi chưa được làm quan thì lo lót luồn cúi để được làm quan, khi đã được làm quan thì cho rằng cái cầu phú quý đã tới nơi rồi, mất tất cả cái đức tính liêm sỉ, quên hết cả cái giá trị thanh cao. Mài dao cho sắc mà khoét xương dân, há họng cho lớn mà hút máu dân. Những câu cửa miệng:
“Túi tham không đáy,”
“Đèn trời thắp bằng mỡ dân,”
“Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan”
đã là cái bằng cấp danh dự của đám quan trường kia vậy.
48-Quan trường không có chuyên môn và chỉ giỏi xoay sở
(Thân Trọng Huề, Con đường tiến bộ của nước ta, Nam Phong, năm 1918)
Nước ta dùng người thì hoặc lựa chọn ở trong bọn con quan hoặc lấy ở trong hàng khoa mục, mà mấy người khoa mục bất quá văn hay chữ tốt thì đỗ, thế là làm quan. Bình sinh học tập chỉ mấy câu trường ốc văn chương, lúc ra làm quan, thì hình như bổ vào mặt gì cũng giỏi, tưởng quan lại bên Châu Âu chưa có ai toàn tài được thế. Cũng là một người lúc thì bổ giáo chức làm một nhà giáo dục, lúc thì bổ chính chức ra làm một nhà chính trị, lúc thì sung giám đốc công trường làm một nhà công nghệ, lúc thì sung chánh sứ đồn điền làm một nhà thực nghiệp, lúc thì đi quân thứ làm một nhà tướng hiệu (1), mà hỏi ra thì chẳng có một cái học thức chuyên khoa nào. Quan nước ta như thế trách nào mà chẳng mang tiếng bất tài.
Ngày 31/5/ 1917, Báo Đông Kinh có một đoạn rằng “một tên đầu đảng trộm cướp kiếm cả đời không bằng một ông quan giỏi lấy tiền trong một năm.” Ngày 12/7, Báo Hải Phòng có một đoạn rằng “cái căn tính ăn tiền của người An Nam di truyền từ tổ tông, không dễ kể năm kể tháng mà chữa ngay được.”
(1) Tướng tá nói chung. Cả đoạn này có nghĩa chuyển sang làm một quan chức quân sự.
49-Hư hỏng cả hệ nên không cách gì sửa chữa
(Phan Chu Trinh, Thư gửi Chính phủ Pháp, năm 1906)
Cũng có đôi khi thay đổi một vài ông đại thần hoặc là thăng giáng một vài viên quan lại. Cái người bị đuổi đi đã đành là không làm được việc, mà cái người thay chân ấy cũng có phải là người làm được việc đâu?! Cái người bị cách (1), vẫn là gian tham mà cái người được bổ cũng không phải là người liêm khiết! Phương chi hôm nay bị giáng, bị cách, ngày mai lại được thăng được thưởng, ở nơi này can khoản (2) lại đổi đi nơi kia, thì tuy có phạm tội tham, mang tiếng xấu cũng có hại gì đâu. Lâu rồi quen đi, đứa càn rỡ lại càng càn rỡ, chỉ lo đem tiền đi mua quan, đứa biếng lười lại càng biếng lười chỉ biết khoá miệng cho yên việc. Mũ áo thùng thình, ngựa xe rộn rịp, hỏi quan chức thì ông này là đại thần trong triều, ông kia là đại lại (3) các tỉnh, chỉ biết có một việc là ngày đi hội thương (4) hay ra công đường xử kiện, còn hỏi đến việc lợi bệnh (5) trong nước hay là trong một tỉnh thì mơ màng chăng biết một chút gì.
Còn đến việc đút lót người trên, sách nhiễu kẻ dưới thì không cứ là quan to quan nhỏ, đều công nhiên cho là cái quyền lợi của người làm quan đáng được, dẫu có ai bàn nói đến cũng không kể vào đâu.
(1) Tức là cách chức, ngược với bổ là giao việc.
(2) Can khoản: bị vướng vào một tội nào.
(3) Cũng nghĩa như chức quan lớn.
(4) Hội họp.
(5) Tức lợi hại, từ cổ, nay ít dùng.
50-Đời sống hàng ngày hủ bại tầm thường
(Nguyễn Văn Vĩnh, Chuyên mục Nhà nho, Đông dương Tạp chí, năm 1914)
Các tật của nhà nho đại khái như sau:
1- Tính lười nhác, làm việc gỉ không mấy ông chịu chăm chút siêng năng. Đi đâu thì lạng khang rẽ ràng. Sáng không dậy được sớm, mà đứng dậy thì làm thế nào cũng phải ngồi ngáp một lúc, rồi nào hút thuốc, nào uống nước, nào ăn trầu, nào rửa mặt sau mới nhắc mình lên được mà ra ngoài.
2 – Tính nhút nhát, động làm việc gì thì lo trước nghĩ sau, không dám quả quyết làm ngay. Thí dụ như chưa đi buôn đã lo lỗ vốn, chưa làm ruộng đã sợ mất mùa. Quanh năm chỉ ngồi một xó không được một trò gì.
3 – Hay nghĩ viển vông mà không lo việc trước mắt. Tiền sờ túi không một xu mà vẫn gật gù đánh chén, sánh mình với Lý Bạch, Lưu Linh. Gạo trong nhà không còn một hột, mà vẫn lải nhải ngâm thơ, tỉ (1) mình với Đào Tiềm, Đỗ Phủ. Học thì chẳng được một điều gì thực dụng mà vẫn tự đắc là tai thánh mất hiền (2). Nói khoác thì một tấc đến trời mà rút lại mười voi không được bát nước sáo.
4 – Ngoại giả các tính ấy, lại còn một tính làm cho hại việc là tính cẩu thả. Xem điều gì hoặc làm việc gì, chỉ cẩu cho xong việc, chớ không chịu biết cho đến nơi đến chốn hoặc làm cho thực kinh chỉ (3) vững vàng. Lại một tính tự mãn tự túc, học chưa ra gì đã lấy làm khôn, tài độ một mẩu con đã cho là giỏi. Vì các tính ấy mà làm cho ngăn trở sự tiến hóa.
(1) So sánh.
(2) Người có tài có đức.
(3) Tạm hiểu: đạt tới chuẩn mực.
51-Bóc lột thay cho quản lý
(Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự, năm 1927)
Vua đè ép các quan lớn. Các quan lớn đè ép các quan nhỏ. Các quan nhỏ đè ép dân. Cái không khí áp chế chỗ nào cũng nồng nặc khó chịu, xuống đến bậc dân thì không còn dân đạo (1) dân quyền gì nữa. Có miệng không được nói có tai không được nghe, phần nào sưu thuế nặng nề, phần nào quan lại sách nhiễu, biết chết mà không đám tránh, bị ép mà không dám than. Chốn thôn đã thì đường xá khuất lấp, trộm cướp nổi lung tung. Ngoài thành thị một bầy quỷ sống, đua nhau ăn thịt dân uống máu dân. Mỗi năm bão lụt, dân bị chết đói, mỗi năm tật dịch, dân bị đau chết, không biết chừng nào.
(1) Đạo, nghĩa gốc là giáo lý, chủ thuyết, dân đạo có thể hiểu là một quan niệm về người dân trong xã hội.
52-Quan cao chức lớn cũng sống như kẻ hạ lưu
(Tản Đà, Đông Pháp thời báo, năm 1927)
Nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mày đay kim khánh mà gian tham xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương hút máu hút mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, như thế có phải là hạng người hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận. Lại nghĩ như những người tây học nho học, học rộng tài cao duyệt lịch giang hồ, giao du quyền quý mà quỷ quyệt giả trá, bôi nhọ ra hề, lấy văn học (1) gạt xã hội để mua cái hư danh, phụ xã hội thân người ngoài (2) để kiếm bề tư lợi, như thế có phải là hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận.
(1) Văn học ở đây tức là học vấn nói chung.
(2) Người ngoài: chỉ người Pháp cũng như người Tàu là các thế lực lúc ấy đang có nhiều ảnh hưởng.
53-Từ ảo tưởng tới thoái hóa
(Phan Khôi, Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân (1) làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm những hy vọng hão huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp (2) ghi vào thanh sử (3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngã ngửa người ra, tay chân xuôi lơ và bủn rủn. Còn người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đã có cái công phu minh đức, nghĩa là mình đã học giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo chi. Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái lưng con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng (!)
(1) Trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) Cũng tức là sự nghiệp.
(3) Thanh sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi là thanh sử.
54-Trì trệ và bất lực
(Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không còn một chút hoạt lực (1) nào, không còn được một tính cách cấp tiến nào nữa. Bởi vậy họ đã chống tiến hoá chống cải cách. Phụ hoạ với triều định, họ đã lấy cái học bã giả (2) của Tống nho dựng một bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới địa hạt tri thức do họ giữ đặc quyền.
… “Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả mặt tình cảm, quá câu nệ về hình thức thơ Tàu, đẳng cấp Nho sĩ Vệt Nam chỉ sản xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu nhưng không chút sinh khí.
Qua ngay hình thức của thơ, ta cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp Nho sĩ và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo xã hội có tính chất cấp tiến.
(1) Sức sống.
(2) Thường nói bã chả, với nghĩa cái phần dư thừa sau khi lấy hết tính chất và nát ngấu nhão nhoẹt.
55-Chỉ biết theo đuổi những giá trị tầm thường
(Dương Bá Trạc, Tiếng gọi đàn, năm 1925)
Danh dự là có tài có đức có công nghiệp (1) có khí tiết thật, còn kẻ chạy theo hư vinh chỉ lo đâm đầu đâm đuôi chạy xuôi chạy ngược để cầu cạnh chen chúc, làm sao cho có được cái mã ngoài ấy thì tất là lộn sòng về cái chân giá trị. Nào trong xã hội mấy ai là người biết cân nhắc so sánh, mà vẫn thường lầm cái hư vinh là cái danh dự thực! Hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân đai, hỏi quỷ ai, tất là ông cả bà lớn, hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu đài ngọc ngà gấm vóc, hỏi cái gì là sướng, tất là ăn trên ngồi trốc, nhận lễ thu tiền. Rồi xu phụ khéo luồn lọt bợm để cẩu vinh, ấy là người giỏi, giết người tợn tâng công khỏe để cầu vinh, ấy là người tài, lắm quan thày tốt, thần thế lo gì cũng xong xin gì cũng được, ấy là anh hùng, nạt con em ức hiếp hàng xóm, anh làm ông nọ, em lâm ông kia, ấy là nhà có phúc, khao phẩm hàm, vọng (2) ngôi thứ, ấy là vẻ vang, cổ kim khánh, ngực mề đay ấy là danh giá. Một người như thế, trăm người đều như thế, đời trước như thế mà đời sau cũng như thế nới!
(1) Cũng tức là sự nghiệp.
(2) Nộp tiền hay lễ vật cho làng để có ngôi thứ.
56-Thiết thực nhưng lại phù phiếm
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938)
Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý (1). Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo (2) và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoà hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực.
Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Não sáng tác (3) thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng, dung hoà thì rất tài. Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo.
(1) Tự nhiên cảm thấy hơn là do suy luận mà biết.
(2) Những gì đã quá quen.
(3) Nói theo cách nói hiện thời, tức “sức sáng tạo” nói chung.
57-Hay tự ái và hiếu danh
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Người Việt rất hay tự ái. Không mấy khi họ thú thật nỗi cực nhọc từng phải chịu. Nhưng tính tự ái thường đi đôi với tính khoe khoang. Họ dễ kiêu căng. Ở nông thôn vấn đề thể diện có một tầm quan trọng xã hội hàng đầu. Người nông dân rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác và thích nên danh nên giá. Để chiếm được một vị trí tốt giữa những người trong cùng cộng đồng, nói chung là để thỏa mãn tính hiếu danh, họ chẳng lùi bước trước một điều gì. Họ sẵn sàng nhịn hẳn thịt cá và các món ăn ngon lành trong cả năm, hay mặc những bộ quần áo vá chằng vá đụp, chỉ cốt để có tiền tổ chức những bữa khao vọng linh đình nhân được thụ phong một loại bằng sắc nào đó.
58-Thói tục di truyền
(Huỳnh Thúc Kháng, Báo Tiếng dân, năm 1929)
Một là, học để làm quan: Người sinh ra ở đời có học mà không khôn mới làm hết được bổn phận làm người. Làm quan chẳng qua là một việc trong sự làm người đó mà thôi. Thế mà người mình có cái tính di truyền “đi học cốt để làm quan,” cha truyền con nối, trước bày nay làm, dầu cho ngày nay phép học phép thi đổi ra cách mới, mà người đi học vẫn ôm cái hy vọng làm quan chủ chốt.
Hai là, làm quan ăn lót: Làm quan… cốt là mượn cái địa vị thế lực mà làm cái lợi riêng, thói ăn của dân cho là cái quyền lợi tự nhiên mình được hưởng, tập dữ tính thành (1) không ai cho là điều quái lạ hồ thẹn:
Ba là, a dua người quyền quý. Ngu dốt mà cũng tán rằng thông minh, bạo ngược mà cũng tán rằng nhân đức. .. bất cứ việc gì người ra thế nào, đã là quyền quý thì cứ nhắm mắt tán dương.
Bốn là, trọng xác thịt (2): Ngoài sự ăn sung mặc sướng ở yên ra, gần như không có tư tưởng gì nữa. Đối với kẻ khác cũng lấy cái mục đích đó mà xem xét Nghĩa là không hỏi nhân cách thế nào, mà chỉ thấy ăn mặc xa hoa, lầu cao nhà lớn thì sinh lòng hâm mộ, dầu có hại nòi nát giống, mà đạt được mục đích thì cũng không từ.
(1) Làm quen mãi rồi thành ra một thuộc tính tự nhiên.
(2) Tức là trọng vật chất.
59-Ỷ lại như một căn bệnh
(Lưu Trọng Lư, Một nền văn chương Việt Nam, năm 1939)
Tôi không nhớ vị Giáo sư Pháp nào, ở lâu năm bên ta, đã nói: “Những thanh niên Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn.” Lời bình phẩm có vẻ vội vàng gắt gao, nhưng không phải là không có một phần sự thực. Vì cái bệnh ỳ lại đã ăn sâu vào trong xương tuỷ người nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
Không phải bây giờ mà từ bao giờ, ở khắp các địa hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống một cách lười biếng và cẩu thả (…) trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là trong sự phô diễn tư tưởng. Tự tử không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta, ta chỉ muốn hường thụ những của sẵn và cam tâm làm kiếp con ve của thơ ngụ ngôn (1). Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao xa. Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người Tây, chưa có một lúc nào chúng ta là những người Việt Nam cả.
(1) Ý nói vui chơi ca hát, không biết tính xa, và sẵn sàng vay mượn để sống qua ngày Lấy tích từ bài thơ ngụ ngôn con ve và con kiến của La Fontaine, bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh.
60-Ai mạnh thì theo, bỏ hết liêm sỉ
(Phan Khôi, Luận về khí tiết, báo Hữu Thanh, năm 1923)
Sĩ phong (1) nước ta, suy đồi đi là tự đời Lê Trung Hưng về sau. Lúc bấy giờ các Vua nhà Lê vẫn cầm quyền mà họ Trịnh dám dấy lên cướp quyền, quan lại và sĩ dân trong nước đều theo họ Trịnh. Hóa nên cái tâm lý sĩ phu thời ấy có hai đàng: thờ Vua Lê để tránh tiếng phản quân, thờ họ Trịnh để kiếm đường thực lợi. Ban đầu chắc cũng có người áy náy trong lòng, về sau tập thành quen, không còn biết thế nào là sỉ nhục.
Một người như thế thì trăm nghìn người hùa theo, người trên như thế thì người dưới bắt chước theo, thành ra cả một nước đều bỏ mất đại nghĩa, quên mất liêm sỉ, mà đổ xô nhau vào vòng danh lợi. Từ đó về sau, người mình trở nên mềm như con bún, không biết vua là gì, không biết nước là gì, hễ ai mạnh thì theo. Lòng tự trọng của người mình như ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hạt giống bị ẩm, không còn nứt lên được. Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến nay, cứ ở trên đè xuống ở dưới (2) lên, làm cho nhân dân ngày một đê hèn ngày một yếu ớt. Lòng tham lợi mạnh hơn lòng tư kỷ (3) thì luồn cúi lạy lục mấy cũng chẳng từ, ưa cái sống đục hơn cái thác trong, thì mặt dạn mày dày đâu có quản.
(1) Tương tự như một thứ khí hậu trên phương diện tinh thần.
(2) Theo Tự vị An Nam Latin (1772 – 1773) đợ có một nghĩa cổ “trao của tin cho ai,” ở đây đợ lên tạm hiểu là nhẫn nhục chấp nhận.
(3) Tự ý thức về cá nhân mình.
61-Biếng nhác, vô cảm, lẩn tránh
(Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Hiện tượng quá đông dân và thường xuyên thiếu việc làm khiến cho nhiều người có tâm lý sống ngày nào biết ngày ấy. Ở thôn quê, những kẻ có chút tiền bạc hoặc có đủ ruộng chỉ còn thích ăn không ngồi rồi.
Xét về phương diện tinh thần, xu hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm bởi nền giáo dục cổ lỗ và chưa bao giờ có phương pháp. Thành ra có sự lười biếng về trí óc, có xu hướng dễ dàng chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy. Sau khi chất đầy trí nhớ các loại kinh sách, nhà nho xưa kia chẳng còn nghĩ đến chuyện trau dồi trí tuệ nữa. Họ thường già trước tuổi. Hoặc là họ nhẫn nhục chịu đựng cốt không để ai đó ganh ghét mà kiếm chuyện lại thôi. Hoặc là họ sa vào thói chơi ngông đôi khi cũng tinh tế đấy, nhưng dễ làm cạn kiệt cái năng lực phát minh cũng như năng lực lập luận khoa học.
Có những nhà quan sát nước ngoài nhận xét người Việt hay trộm cắp và dối trá. Trong một thời gian dài, người dân nước này chỉ được nhận một nền cai trị kém cỏi, trong đó thấm sâu chính sách ngu dân. Cá nhân con người luôn luôn bị săn đuổi, họ buộc phải bao quanh mình một tấm màn bí mật. Làng xã cũng vậy, trong quan hệ với chính quyền trung ương họ cố giữ lấy một thái độ nếu không độc lập thì cũng ương bướng bất phục.
62-Nặng óc hư danh
(Phạm Quỳnh,Danh dự luận, Nam phong, 1919)
Dân ta là dân rất hiếu danh, mà hiếu hư danh, tật đó dẫu người nông nổi xét xã hội mình cũng đủ biết. Từ trên xuống dưới từ thấp chí cao, từ anh khố rách trong làng cố cầu cạnh cho được chức trương tuần phó lý để được người ta khỏi gọi là bố đĩ, bố cu cho đến bậc phú thương nơi thành thị thi nhau mà mua lấy tiếng ông bá ông hàn để ra mặt thượng lưu trong xã hội, cậu cả cậu hai luồn lót hàng chục hàng trăm để được gọi là thầy thông thầy phán, hết thảy đều như có cái ma lực nó run rủi, phải cố chuốc lấy chút danh tiếng hão mới mãn nguyện.
Không có lòng danh dự mà có tính hiếu danh thời dễ táng thất lương tâm. Quỵ lụy khúm núm trước mặt người trên, châu tuần (1) nơi quyền quý để cầu sự nọ, khấn việc kia, ví phải đập đầu xuống đất mà lạy cũng cam tâm. Xét cái danh dự phổ thông trung xã hội, cái danh dự hàng ngày hiển hiện ra trong cuộc giao tế (2), thời phải chịu rằng người mình ít có thật.
(1) Loanh quanh chầu chực nơi nào đó.
(2) Quan hệ trao đổi tiếp xúc với nhau.
63-Sống không lý tưởng
(Hoa Bằng, Hư sinh, Tri Tân, 1943)
Có chí mà không làm nổi, đó là vì tài lực không đủ thật không đáng trách. Nhưng trong chúng ta, đáng trách là hạng người sau: sống ở đời, không có mục đích gì cao hết. Họ không có một cuộc đời lý tưởng. Họ không coi một thứ gì là đáng ham chuộng, ngoài sự làm tôi đồng tiền mặc dầu phải quăng bỏ liêm sỉ bán rẻ nhân cách.
Ngoài ra, lại còn một hạng cho ai cũng là người võ vị, việc gì cũng là việc không đáng làm, ngất ngưởng qua ngày, hững hờ đoạn tháng, để đồng tiền huyết hãn (1) của cha, mẹ, vợ, con vào vòng trời hoa đất rượu, phung phí tuổi giàu sức khoẻ vào những cuộc đỏ đen suốt sáng, mây khói thâu canh. Họ chỉ cốt sống để tìm những thỏa mãn về vật dục (2)…
(1) Huyết: máu, hãn: mồ hôi, ngày nay hay nói mồ hôi nước mắt.
(2) Mọi ham muốn vật chất.
64-Mong tìm yên lành, hóa ra bảo thủ
(Quốc dân độc bản, tài liệu do Đông Kinh Nghĩa thục soạn năm 1907)
Trải qua các đời, dân ta chịu sự cai trị của vua quan, không có thể dùng tâm và mưu cho nước, nước tự nó sống còn. Trên có vua hiền tướng giỏi thì tạm thời yên ổn. Bất hạnh là không có vua hiền tướng giỏi thì cả nước loạn ly, nhân dân lầm than. Từ xưa đến nay, sở dĩ có ít ngày được bình trị, mà có lắm cuộc loạn ly, nguyên nhân là ở đó.
Dân nước ta có ưu điểm là an phận, thành thực, nhẫn nại. Không biết lợi dụng những ưu điểm ấy thì sẽ sinh ra ba cái tệ. Một là bảo thủ mà không biết tiến thủ. Hai là dựa vào người mà không biết tự lập. Ba là yên thân mình nhà mình, mà không biết ái quần ái quốc. Không trừ ba cái tệ đó thì dù có vua hiền tướng giỏi cũng chỉ bình trị nhất thời mà thôi, sao có thể chống chọi với các nước lớn được. Ngày nay phải nghĩ đến tự cường thì ngày sau mới tự cường được.
Xã tắc trong cảnh thái bình, có trên cô dưới, trật tự kỷ cương đâu vào đấy.
65-Từ chối mọi cuộc cải cách
(Nguyễn Văn Huyên vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ năm 1939)
Tầng lớp trên ở nông thôn, các kỳ mục (1) trong làng, phản đối mọi cuộc cải cách thực sự và sâu sắc. Đây là những người đã trả giá trong hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm để củng cố địa vị xã hội của mình. Họ đã ở tuổi có thể bình thản ngồi xếp bằng trên những manh chiếu trải giữa đình để đánh giá cung cách người ta phục vụ họ ăn uống ra sao. Nếu có ai dám nghĩ đến chuyện thực hiện một cuộc cải cách nào đó thì người ấy chắc chắn chuốc lấy những mối hiềm thù không thương xót.
(1) Những người có điển sản hoặc từng có phẩm hàm và chức vụ tập hợp lại làm nên hội đồng kỳ mục, có nhiệm vụ đề ra các chủ trương chung của làng xã.
66-Không hình thành nổi một dư luận sáng suốt
(Vũ Văn Hiền việc cai trị ở thôn quê, năm 1945)
Ngoài tinh thần độc tôn bè đảng, còn một trở lực nữa ngăn cản mọi công việc cải cách ở thôn quê tà dư luận trong làng, một thứ dư luận mạnh mẽ, ác nghiệt và mù quáng. Nhiều việc cải cách đã quyết định rồi đành bỏ dở chỉ vì người thừa hành sống trong làng xóm, không thể chịu đựng được những dị nghỉ chế giễu mà hàng chục hàng trăm người nhắc lại ở khắp đầu làng cuối ngõ. Đã không có quyền bắt mọi người im, lại sống luôn với những người đó, hương chức tránh sao nổi ảnh hưởng của dư luận và sau vài ba tháng làm việc, người hăng hái đến đâu cũng đành “dĩ hòa vi quý,” bỏ hẳn những ý định của mình để sống theo nếp cũ.
67-Sự tự do, cam chịu bất công
(Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng, 1939)
Đế vương xưa chỉ dạy thờ người trên và biết nghĩa vụ của mình còn quyền lợi không cần biết đến mà cũng không có nữa. Tục ngôi thứ đã in rất sâu vào óc người dân quê, đến nỗi những tư tưởng tự do phóng khoáng từ phương Tây truyền sang, đến lũy tre xanh là dừng lại, biến mất như một ngọn gió mát tan vào một bầu không khí nồng nực nặng nề.
Tục vị thứ hóa ra tục sùng bái nhân tước (1) một cách u ám đê hèn, và thay vào óc kính thượng là một óc nô lệ đáng khinh.
Tự do cá nhân và hết thảy các tự do ở bên ta và nhất là ở nơi thôn quê chỉ là một câu chuyện hoang đường. Cũng vì thiếu tự do – nếu ta không kể sự tự do phục tùng và tự do uống rượu – nên tình cảnh dân quê về phương diện tinh thần mới có vẻ điêu linh tàn tạ. Cũng vì thiếu tự do nên người ta đối với những công cuộc cải cách mới lạ thường có cái não ngờ vực. Sức phản động dìm dập dân quê vào nơi ngu tối, tạo thành cho họ cái tính nô lệ, cái căn tính chịu đựng trước những sự tàn ngược ức hiếp.
(1) Vị thứ tức ngôi thứ trong làng, nhân tước là những tước vị do con người đặt ra.
68-Thù ghét mọi sự thay đổi
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử đại cương, 1950)
Chúng ta không có những nhà tư tưởng xây dựng được những công trình huy hoàng phong phú. Chúng ta chỉ cốt sống được, và trong địa hạt sinh hoạt vật chất cũng như trong địa hạt tư tưởng nghệ thuật, chỉ nghĩ đến cái gì có thể giúp cho mình thích ứng với hoàn cảnh ác liệt, để theo đuổi một cuộc sống tầm thường kín đáo mà thôi. Bởi thế nếu thỉnh thoảng có một người nào có khí độ phóng khoáng, không chịu ép mình làm nô lệ thánh hiền mà vượt ra ngoài vòng lề lối – mới vượt ra ngoài chứ chưa chắc đã xây dựng được cái gì mới – thì xã hội đã xem là quái vật mà không dung. Hoặc giả khi có nhà nghệ thuật thực hiện được một cái gì to lớn phi thường như pho tượng thánh Trấn Vũ ở Hà Nội(1) chẳng hạn thì cái mái nặng nề của ngôi đền lại đè bẹp nó xuống ở trong bóng tối mò của gian chính tẩm (2). Những cái thái độ và quan niệm xuất kỳ (3) ấy thường bị cái tính thiết thực của dân tộc kìm hãm hay bài xích ngay.
(1) Pho tượng này cao 3, 95m, đặt ở chùa Quán Thánh.
(2) Gian nhà to rộng ở giữa.
(3) Bày ra kế lạ, có những tư tưởng mới mẻ.
69-Tưởng nói thật mà hóa ra nói dối
(Hoài Thanh, Thành thực và tự do trong văn chương, 1936)
Văn chương ta từ trước từ nay vì bó buộc quá đỗi nên luôn luôn đi bên cạnh sự giả dối, sự bịa đặt. Nhà văn chỉ lo viết thế nào cho đúng với lẽ phải của xã hội mà không cần đúng với sự thật tự nhiên (1). Văn chương thành ra một cách để dối mình và dối người.
(1) Trong xã hội học có sự phân biệt giữa cái tưởng là sự thật, đang được một người trong xã hội công nhận và các sự thật đúng như nó có, song chưa được phát hiện và nhận thức thấu đáo, ở đây ý nói nhà văn ta chỉ biết loại sự thật thứ nhất.
70-Hợm hĩnh quá đáng
(Phan Khôi, Khái luận về văn học chữ Hãn ở nước ta, 1939)
Một vài ông vua nước Nam đã làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm rằng văn học nước mình cũng ngang hàng với Trung Quốc. Sự thác giác (1) ấy làm hại cho quốc dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ.
Lê Thánh Tông phê bình hai câu thơ của Thân Nhân Trung quan đại học sĩ tại triều mình “Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn cảnh – Hàn giang thi lạc dạ tam canh” hợm hĩnh cho rằng dù Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức (2)… cũng vị tất đã nghĩ được ra.
Gần này người ta còn truyền tụng hai câu thơ phê bình thi văn bản triều (3): “Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán – Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.”
Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn đáng gọi là thịnh hơn các triều khác, nhưng nếu bảo vượt qua cả Hán Đường thì quá lố!
Những lời tự khoe ấy cần phải cải chánh.
(1) Thác giác: lầm tưởng.
(2) Các thi hào nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung quốc.
(3) Tức triều Nguyễn.
71-Tinh thần voi nan
(Xuân Diệu, sinh viên với quốc văn, đầu năm 1945)
Còn những tật xấu riêng của người Việt ta là gì? Chỉ cần kể ra đây một cái tật đại biểu, cái tật to lớn nhất, rõ rệt nhất, có hại nhất là cái tinh thần mà tôi gọi là: tinh thần voi nan. Phải, những con voi to lớn lắm, có đủ chân đủ vòi, nhưng nó ở trong bằng nan ở ngoài bằng giấy. Trong kinh tế những cái “imprimene” hay “boulangene universelle”(1) chẳng hạn là những cái nhà có dăm mươi thợ làm, những đại thương cục (2) là những hiệu bán một ít khăn quàng bít tất, thì trong văn chương nhiều quyển sách là những sự bôi phết qua loa chẳng đủ tài liệu mà cũng chẳng nói ra được điều gì mới lạ. Mấy năm nay, các bạn chắc cũng bị cái mã khảo cứu nó đánh lừa, mua quyển sách về được cái bìa là có ý nghĩa.
Một bản dịch “Ly tao” mà đem điệu Sở từ dịch qua loa ra lục bát là voi nan. Một tập sách nói nhảm dông dài mà gọi là tiểu thuyết, một quyển sách gọi là “Hát dặm Nghệ Tĩnh” mà chỉ góp nhặt những bài hát dặm vài huyện Nghi Xuân Can Lộc tại Hà Tĩnh, chứ chẳng thấy tỉnh Nghệ An ở đâu: đều là voi nan cả. Voi nan đề lừa độc giả, voi nan để làm tiền, kể làm sao xiết voi nan!
(1) Tiếng Pháp chỉ các nhà in, các cửa hàng bánh mì lớn.
(2) Giống như các trung tâm nọ trung tâm kia thời nay.
72- Co mình trong hủ lậu
(Văn minh tân học sách, 1904)
Kìa những kẻ ham mê đàn sáo, đầu hồ (1), bài lá, cờ tướng, đố thơ, đánh chữ, số tướng, địa lý, phù thủy ngày ngày dốc cả trí khôn vào những thứ vô dụng, sống say chết mộng, chả kể làm gì. Những hạng cao hơn, đỗ đạt lên một tý được cái tiếng quèn đã vội khủng khỉnh ta đây kẻ cả, tự xưng là bậc giữ gìn thế đạo (2), ngày ngày khoe câu văn hay, khư khư ngồi giữ những thuyết hủ lậu, khinh bỉ hết thảy học mới văn minh. Hạng kém hơn nữa thi chỉ nghe có vấn đề thăng quan lên mấy bực cất nhắc mấy người, chứ không hề biết đến vấn đề nào khác. Có một ông nào đã nói với các bạn hậu tiến (3): “Các thầy muốn ra làm quan, thì phải cẩn thận, đừng đọc sách mới, xem báo mới,” nếu không biết đến sách báo mới thì thôi, chớ đã biết đến mà lại bưng bít che lấp đi khiến cho không nghe không thấy chuyện gì, để tự mình lại củng cố một căn tính nô lệ, nhân cách như thể thiệt nên lấy làm đau đớn!
(1) Đầu hồ: một trò chơi của người xưa, ném một cái thẻ xuống một miệng trống rồi tính điểm, được “Đại Nam quốc âm tự vị” miêu tả là “một cuộc chơi lịch sự.”
(2) Thế đạo: đạo lý ở đời.
(3) Hậu tiến: đây chỉ có nghĩa lớp người thuộc thế hệ sau, chữ không phải người kém cỏi.
73-Văn chương nặng về chơi bời đùa giỡn
(Phan Khôi, Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta, 1939)
Ở nước ta, kẻ học khi chưa đỗ thì chăm về văn khoa cử, khi đỗ rồi thì chăm về văn thù ứng(1). Có những người nổi tiếng mà nhan nhản những bài hết tự tặng người này lại dâng người khác, té ra trời phú cho ông ấy cái văn tài lỗi lạc là để đi thù phụng thiên hạ. Vậy nếu tôi nói một ngàn năm nay người An Nam làm văn chữ Hán chỉ chuyên có hai lối khoa cử và thù ứng và trong văn học chỉ sở trường một cách “Jeu de mots” (2) mà thôi, cũng chẳng quá nào!
(1) Thứ văn thơ làm khi giao tiếp khoản đãi nhau.
(2) Chơi chữ.
74-Lười biếng và hay nói hão
(Xuân Diệu, Sinh viên với quốc văn, 1945)
Tật đầu sổ là tật lười, tật làm biếng. Lười suy nghĩ thích nhàn nhã, thích ngồi không. Nếu máu chúng ta chạy mạnh thì tất chúng ta phải xung xăng làm cái nọ cái kia chớ vô vi thì chịu sao nổi. Vậy thì trong văn học thôi ta đừng dùng cái khẩu khí hát cô đầu nữa mà phải thế này: cúc cung tận tuỵ.
Thứ hai là tật “một tấc đến giời.” Ngồi mà thanh tịnh vô vi thì dễ hiểu vũ trụ lắm: Ta cho vũ trụ là thế nào thì vũ trụ sẽ thế ấy chớ chi. Nhưng sự thật là ta phải đi nghiên cứu tìm tòi mới hiểu vũ trụ được. Một tật nữa là não(1) huyền hoặc, não chuộng thần quyền. Gần đây trong thơ văn có cái mốt nói chuyện Liêu Trai. Có những thi sĩ nhất định lấy hồ ly làm vợ và nếu buông cụ Bồ Tùng Linh ra thì họ không biết nói gì.
(1) Não ở đây là một lối suy nghĩ, nay hay thay bằng “óc.”
75-Trọng mê tín và xem nhẹ trách nhiệm với xã hội
(Nguyễn Trường Tộ(*), Tám việc cần làm gấp 1867)
Trong dân gian, phần nhiều hễ có công sai đến thúc giục thuế khóa thì cả hương hào lý dịch cũng lánh mặt. Thế mà ngày cúng thần thì không thiếu mặt nào cả. Có những gia đình không được khá giả, qua một kỳ cúng thần mang nợ suốt đời. Có người còn phải bỏ xứ đi phiêu tán. Thế mà họ không hề oán trách chuyện thần thánh phiền phức, lại đi oán trách sưu cao thuế nặng.
(*) Nguyễn Trường Tộ thuộc thế kỷ XIX, nhưng về tư tưởng gần với các trí thức thế kỷ XX, nên xin phép được đưa vào đây.
76-Khổ vì hội hè
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, 1915)
Xét cái tục hội hè của ta, rước xách rất phiền phí, ăn uống rất lôi thôi, chơi bời rất chán chê, tiêu pha rất tốn kém, thực là hại của mà lại mua lấy cái khó nhọc vào mình. Đã đành mở hội trước là trọng việc sự thần (1), sau là cầu vui cho dân, nhưng trong mà rước xách tế bái lắm hóa ra khổ. Hội đến hàng tháng, chịu làm sao cho được?
Vả lại đã gọi là hội, trừ ra việc đóng góp, việc ăn mặc cũng đã tốn kém nhiều rồi, còn ngần nào chơi bời, ngần nào cờ bạc, con em bỏ công bỏ việc ở nhà để đi hội, chẳng những vô ích mà lại hại thêm cho làng nữa.
… Xưa nay chỉ mấy người hào trưởng (2) trong làng sính mớ hội vì họ có nhiều món lợi riêng, như mở tổ tôm điểm, bài phu điểm (3), hoặc gá bạc để lấy hồ (4)… Họ mượn tiếng sự thần, kỳ thực lá cầu tư lợi. Mà khốn nạn cho dân đàn em lại phần nhiều là ngu xuẩn, nói đến việc sự thần không ai dám gàn trở gì nữa, dẫu khổ cực thế nào cũng phải nhắm mắt chịu. Nếu ai gàn trở thì sợ thần quật chết tươi. Mà thần chẳng quật, bọn hào trưởng cũng quật, tội nghiệp!
(1) Sự ở đây là thờ phụng.
(2) Người có thế lực trong làng.
(3) Những địa điểm ăn chơi, bài phu cũng là một loại bài lá như bài bất bài cào…
(4) Tiền người đánh bạc nộp cho chủ sòng gọi là hồ.
77-Nạn “thần mãn”
(Ngô Tất Tố, Phải hỏi ngôi đền ấy thờ ông thần nào đã – báo Thời vụ 1938)
An Nam vốn là một nước nhiều thần nhất thế giới. Cái vạ thần mãn (1) kéo dài mấy trăm mấy ngàn năm nay làm hại bao nhiêu trâu bò gà lợn… của chúng ta. Đành rằng cũng có nhiều ông thần có công với dân, đáng để cho dân kỷ niệm, song cũng vô số thần cực kỳ bẩn thỉu dơ dáy, thí dụ như ông thần Cường Bạo đại vương chẳng hạn, nếu còn sống chắc phải đầy đi Côn Lôn. Thế mà chúng ta cứ thờ bừa đi, lễ bừa đi, há chẳng oan cho cái đầu cái cổ.
(1) Quá nhiều thần, thừa thần,cũng như nạn nhân mãn là quá nhiều người, thừa người.
78-Mê muội hưởng lạc
(Nguyễn Trường Tộ, tám việc cần làm gấp, 1867)
Có những người nộp một quan tiền thuế mà tựa hồ bị cắt mất một miếng thịt, rên siết than vãn, thế mà đến sòng bạc thì cầm nhà bán cửa không tiếc. Có những hạng giàu có phong lưu, ăn mày chầu chực trước nhà không xin nổi một đồng điếu, người làng thiếu thuế không vay lợi được một quan, thế mà đến chỗ ăn chơi thì ngàn vàng mua một trận cười, trong cơn sát phạt, trăm vạn chỉ đặt một tiếng. Hạng người này nhiều lắm, không xe nào chở hết…
Cũng có nhiều người mới học kha khá đã truy hoan, ngày nào cũng mài miệt trong cuộc đỏ đen, thường lui tới các chủ nợ hứa với người ta rằng “Đợi tôi dạ một tiếng trước cổng trường (1) thì mọi việc sẽ đâu vào đấy.” Rắp tâm hành động như thế, rõ ràng là quan trộm cướp của công chứ còn gì?
(1) Tức là thi đỗ, rồi ra làm quan tha hồ kiếm chác.
79-Lười nhác, ốm yếu
(Phan Bội Châu, Bàí diễn thuyết tại trường Quốc học Huế, 1926)
Người nước ta quý trọng các ông thầy đồ lưng dài tốn áo ăn no lại nằm đã thành ra một cái bệnh gần chết không có thuốc chữa. Đến lúc sóng Âu Châu ập vào, người ta coi chừng đã tỉnh dậy, nhưng mà công phu về đường thể dục còn chưa nghiên cứu đến nơi. Cái căn tính lười nhác đã quen nết lâu ngày, lại nhiều điều thói đãng tính dâm dê (1) cho hại đến sinh mệnh, người ta lấy thế làm sự thường, không lo đường cải cách nào là công khóa (2) về đường thể thao, nào là lợi ích về cách vận động. Trong một ngày có 12 giờ nửa ngồi chết trước cuộc tài bàn (3), nửa nằm chết bên đèn thuốc phiện. Vận động đã không có công phu thì huyết mạch lấy gì làm lưu thông, huyết mạch đình trệ thì thân thể phải hèn ốm cho rồi, dân mới hóa ra dân nô lệ, nước mới hóa ra nước bạc nhược.
(1) Thói đãng là cách sống buông thả, riêng dàm dê là gì, chúng tôi chưa tra cứu được, không rõ có phải là dàm dê hay không?
(2) Những công việc khi vào học phải làm là công, những học trò phải học là khóa, gọi chung là công khóa (Theo Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển).
(3) Một loại tổ tôm, nhưng chỉ có ba người, và đánh không có chừng mực nào cả (theo cách giải thích của Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục).
80-Đầy rẫy tệ nạn
(Đỗ Đức Dục, vấn đề tổ chức những thì giờ nhàn rỗi của người bình dân ở xứ ta, Thanh Nghị, 1945)
Thử nhìn vào đám dân quê dư dật xem họ có việc gì, ta thấy ngoài công cuộc làm ăn, họ chỉ còn quân bài lá bạc thuốc phiện hay cô đầu. Đám dân nghèo cũng vậy, không phải là họ không biết cờ bạc, ngược lại càng nghèo họ càng lăn vào cuộc đỏ đen, hòng kiếm thêm ít tiền mà mồ hôi nước mắt không đủ mang lại cho họ. Thành ra, từ trên xuống dưới, giàu cũng như nghèo, không to thì nhỏ, cờ bạc đã trở nên một tập quán ăn sâu vào đầu óc dân chúng, đó thực là một mối tai ương cho dân tộc ta vậy.
Ngoài ra nếu không cờ bạc thì người ta lại đua nhau đồng bóng, lễ bái nhảm nhí, từ đó sinh ra biết bao nhiêu mối tệ đoan khác.
81-Không có ham muốn phiêu lưu
(Văn minh tân học sách, 1904)
Người Âu trọng du lịch, xem thường hiểm trở gian nan, đi thám hiểm Băng Dương, đi vòng quanh địa cầu, đều là những việc thường thấy. Nước ta có thể không? Lìa nhà mươi dặm đã bùi ngùi những mưa gió hoa vàng! Ở lữ thứ (1) vài năm đã than thở quan hà đầu bạc (2). Nói gì đến Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng, Cao Miên không ai chịu đặt chân tới nhưng ngay đến Trung Hoa đối với ta vẫn là chỗ cùng tộc loại, cùng đạo giáo, cùng lễ giáo văn học, cho đến phương tiện giao tế, cái gì cũng giống nhau, thế mà người Tàu thì ở nhan nhản khắp nơi kinh kỳ đô hội bên ta, còn người nước ta thì chưa một ai đến thành Ngũ Dương (3) cả.
(1) Lữ thứ: nhà trọ, chỗ xa lạ.
(2) Quan hà: cửa ải và sông, quan hà đầu bạc chỉ vất vả mà người đi xa phải chịu khiến người ta già đi.
(3) Thành Ngũ Dương đây chỉ Quảng Châu, thủ phủ Quảng Đông, chứ không phải Quảng Đông nói chung như một số tài liệu đã chú.
82-Vay mượn cẩu thả thêm thắt tuỳ tiện
(Nguyễn Văn Vinh, Tật huyền hồ sáo hủ, 1913)
Ngày nay có cải lương (1) gì thì sợ rằng trái đạo lý cũ của mình. Đạo lý cũ của mình là thế nào có ai biết đâu? Con khóc cha mà cúng phải tìm trong Thọ mai gia lễ hay là Văn công gia lễ, xem ngày xưa ở bên Tàu các õng ấy khóc cha ra làm sao, thì cứ thế mà khóc. Gián hoặc (2) trong hai cách có điều gì khác nhau thì cũng biết vậy, lúc tung việc thì vớ được quyển nào theo quyển ấy. Gọi là cho nó theo một lệ não đó, thì là nhà có văn phép.
Trong cả các trò chơi, như hát tuồng, hát chèo cũng hay bắt chước nhưng cách vô lý. Tấn tuồng thì lấy trong các sự tích của Tàu mà lúc Ta hát thì quên cả đến thời đến xứ (3). Cứ nhân được chỗ nào hát được mấy câu nam thì nam (4) cho mấy câu. Chỗ nào có dịp khôi hài thì khôi hài. Thấy người xem có mấy người dễ cười, thì làm mãi.
(1) Cũng tức là cải cách.
(2) Giá như.
(3) Thời tức niên đại thời gian, xứ tức hoàn cảnh không gian.
(4) Nam: vốn được hiểu là những gì mang tính cách thuần Việt. Đọc chệch thành nôm. Và chữ nam thứ hai thì dùng như một động từ.
83-Gọt chân cho vừa giày
(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử đại cương, 1950)(*)
Vô luận là vấn đề gì, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền Trung Quốc giải quyết sẵn cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì. Trái lại, cái gì của Trung Quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại phải hãm lại cô lại cho vừa với kích thước khuôn khổ của chúng ta.
Bởi thế chính trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta, tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng, một nhà triết học nào. Chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý chứ không có nhà nho nào dám hoài nghi bất mãn với đạo lý xa mà băn khoăn khao khát đi tìm đạo lý mới.
(*) Đây là một cuốn sách mỏng, do nhà nghiên cứu Đào Duy Anh viết và xuất bản ở Thanh Hóa trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chứ không phải Việt Nam văn hóa sử cương của tác giả in lần đầu 1938.
84-Cái gì cũng giả
(Ngô Tất Tố, Báo Thời vụ, năm 1938)
Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xã hội Vệt Nam sản ra những bọn người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của Sở nọ, Sở kia. Hạng người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một bọn ăn cướp.
Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều món giả bằng nước An Nam. Cũng thì một miếng thịt, người ta bày ra đủ trò: nấu với tiết gọi là giả trâu, nấu với riềng mẻ gọi lả giả cầy, nấu với hành răm gọi là giả chim, nấu với đậu nghệ gọi là giả ba ba, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương thì lại bảo là giả dê.
Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ qua hàm răng thì nó là lợn hay trâu, hay gì gì nữa, cái lưỡi sẽ biết tức thì, thế mà chúng ta cứ làm giả, thì có khác chi xúi giục nhau rằng: trên đời không có cái gì mà không giả được? Cái nạn nhiều hạng người giả từ đấy mà ra.
85-Những cuộc khao vong nặng nề vô nghĩa
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người được phẩm hàm… đều phải khao vọng. Nhà vua cũng đã đặt lệ giản tiện cho người ta dễ theo. Đại để như đỗ tú tài thì khao một con gà, một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân thì khao một con lợn, một mâm xôi và năm quan tiền. Nhưng ngặt vì tục dân đã quen, chiếu lệ ra mà làm thì họ cung phải chịu, nhưng tình ý không thỏa hiệp thì họ sinh ra lắm sự ngăn trở. Họ có câu rằng “Phép vua thua lệ làng” thực là một lời nói đáng khinh bỉ.
Lại ngán nỗi cho hạng kỳ mục, động ai có việc gì mới mọc đến ăn uống no say rỗi thì giở ra cách chơi bời, thuốc phiện hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm rĩ, ấy thế là thỏa thuê, ấy thế là hể hả. Giá đám nào kém thì đã thấy lắm kẻ hậm hà hậm hực, tiếng lọ tiếng kia, làm cho người ta khó chịu.
Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không còn biết trời đất là đâu, người sự ăn uống không còn có sự nghiệp gì, như thể thì trách làm sao mà dân chẳng hèn, nước chẳng nhược?
86-Tài hèn trí đoản, bán quẩn buôn quanh
(Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi đâu cả. Có đi chăng nữa, thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lào Cai, Yên Bái hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc, mà quanh năm chí tối bán quẩn buôn quanh.
Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu(1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc có cơ tấn tới cũng phải tan không thành nữa.
(1) Tức có kết quả.
87-Bôi bác, giả dối
(Thạch Lam, Hà Nội ba sáu phố phường, năm 1994)
Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: qùa muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách, còn cái phẩm có tất hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất te bột, nặn xuề xòa để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc (1) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều -nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó lấy nhiều hoa mắt người ta được. Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một sự thức giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.
(1) Bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.
88-Cần mẫn một cách bất đắc dĩ
(Nguyễn Văn Tĩnh, Xét tật mình, Đông Dương Tạp chí số 12)
Dân An Nam ta có nhiều tật xấu, duy có một tật làm biếng là không ai trách được (1). Chỉ hiềm một điều làm ăn thì cần mẫn, nhưng lại không coi cái cần mẫn ấy là vinh hiển, tựa hồ như một điều bất đắc dĩ phải làm thì làm, chớ không có gì vẻ vang. Hồ (2) nhờ được cày cuốc mà có dư ra thì lo ngay danh miệng (3). Đến lúc lên được ông nọ ông kia, mà có ai nhắc đến phận cày phận cuốc khi xưa thì xem hình như người ta xỉ vả mình.
Cái lý tường sai ấy là do trong bọn thượng lưu, trong các nhà chữ nghĩa lấy cái nhàn làm cái hân hạnh. Chỉ có dăm ba chữ ngồi rung đùi từ sáng đến chiều, còn gạo thổi cơm ở tay ai mà ra, vải may áo ở tay ai mà ra, không nghĩ đến.
(1) Ý nói phải nhận là người chăm chỉ.
(2) Nếu, giả như.
(3) Tiếng hão.
89-Không thiết chuyện gì
(Phạm Huỳnh, Hoàn cảnh, Nam phong, 1924)
Người nước ta, đối đãi với nhau một cách nghiêm khắc, trách bị nhau những chuyện nhỏ nhặt. Ngoài sự hư danh, một tiểu lợi, nhất thiết hoài nghi cả, không thiết chuyện gì: phàm những sự nghiệp lớn lao, những chủ nghĩa cao thượng cho là viển vông, không biết đem lòng ham chuộng, không biết dốc chí theo đuổi.
Tật thứ nhất của dân mình là hay xét nét. Bới lông tìm vết, người nọ dùng trí khôn để dò xét người kia. Xã hội như cái sa-lông, đông khách ngồi, nhưng cứ rụt rè mà nhìn nhau, ngoài những lời thăm hỏi vẩn vơ những câu hàn huyên vô vị, không gây nên được câu chuyện đượm đà hứng thú.
90-Trống rỗng tầm thường
(Nguyễn Văn Vĩnh, Đời sống và khung cảnh An Nam, Báo L’Annam Nouveau, năm 1934)
Trong sự bày biện của chúng ta thiếu hẳn sự hợp lý. Sự thiếu hợp lý này có đôi khi mang lại tính chất muôn màu muôn vẻ mà ờ những nước hiện đại không thể có: họ mắc chứng rập khuôn hàng loạt.
Thế nhưng rút lại thì ở ta cái ấn tượng chung vẫn là một bức toàn cảnh tầm thường. Con người trì trệ, quần áo đồ đạc cũ kỹ và đáng sợ hơn cả là người ta luôn luôn gặp những khung cảnh đẹp mà bên trong rỗng tuếch, những trang trí sặc sỡ tham gia vào một vở kịch nhạt nhẽo, cái nọ triệt tiêu cái kia, do đó mà chỉ có những vai phụ ra múa may để làm ra vẻ đang đóng những vai chính.
91-Nông nổi, hời hợt
(Thạch Lam, Theo dòng, năm 1941)
Những phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung là nông nổi, hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc. Bởi ta không chịu phân tích và suy xét kỹ nên bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng không biết được rõ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt.
Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược. Những tính tình phong phú, dồi dào hay mãnh liệt chúng ta ít có. Chẳng dám yêu cái gì tha thiết và cũng chẳng dám ghét cay đắng, lòng yêu ghét của chúng ta nhạt nhẽo lắm. Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm no.
92-Đối với những tư tưởng lớn chỉ hiểu sơ sài
(Nguyễn An Ninh, Lý tưởng của thanh niên An nam, năm 1924)
Thu nhặt tất cả những gì về văn chương nghệ thuật đã được làm ra trên đất nước ta, dễ thấy nguồn tài sản tổ tiên ta để lại là mỏng manh so với các dân tộc khác. Không thể từ cái di sản đó tiếp thêm sức mạnh trong cuộc chiến đấu giành một chỗ đứng trên thế giới.
Những tác phẩm đã đóng góp vào việc nâng cao trình độ học thức của người Trung Quốc thật là nhiều, nhưng với các nhà của ta, hình như các ông ấy chỉ biết mỗi một mình Khổng Tử.
Đạo Khổng dưới dạng một món hàng xuất khẩu mang sang nước An Nam đã gây tai hại: Các nhà Nho ta muốn Khổng hóa tất cả những gì nằm trong tầm mắt của họ, giải thích mọi thứ theo cách hiểu hẹp hòi của họ.
Hiểu biết của ta về các vấn đề Trung Hoa, về nền văn hóa Trung hoa còn rất xa yêu cầu hiểu biết thực sự (những người đã hiểu thấu đáo văn hóa Trung Hoa có đủ trình độ để tiếp thu mọi luồng tư tưởng của nhân loại). Cũng như, cho đến nay, chưa có một người Việt Nam nào tiếp thu đầy đủ ý nghĩa của văn hóa Pháp.
93-Tín ngưỡng xen lẫn hoài nghi
(Lương Đức Thiệp, Xã hội Việt Nam, năm 1944)
Tín ngưỡng của người Việt không có tính cách đơn thuần. Họ nhận thức rằng trong vũ trụ có những lực lượng có thể nguy hại tới họ, nên họ tìm cách ngăn ngừa. Không rõ các lực lượng âm thầm tác động ra sao nên họ tế lễ để cầu yên. Đối với họ, ông thánh nào cũng thiêng, ông thần nào cũng mạnh, Phật tổ Lão tổ đều là bậc thánh thần cả, bởi vậy họ phải kiêng sợ mà lễ bái để cầu lợi lộc. Thực ra, trong trí họ vẫn lởn vởn ít nhiều ngoài nghi.
Đem chứng nghiệm với cuộc đời thực, họ thấy uy quyền của Thần Phật có mà cũng lại không. Thái độ lưng chừng và thiết thực làm họ dung hòa được các tôn giáo. Họ không có một tín ngưỡng vững chắc nào…
Vương Trí Nhàn
Nguồn: http://bloganhvu.blogspot.com/
Trần Văn Giang (st)
.