Văn Hoá Nam Bộ Là Tương Lai Của Việt Nam

.

Cô gái miền Nam

  

Vô Chiêu hoá giải tà chiêu!

Vô Tư thuần hoá giáo điều 

Vô Tâm phá chấp mưu đồ. 

 

Sông nước MIỀN NAM rất mới trong lịch sử dân tộc, mới khoảng hơn 250 năm, nhưng chính nơi đây là cánh cửa mở rộng mênh mông cho vùng đất cổ Việt đã rất chật, rất cũ, suy tàn, cứng ngắc trong khung cũi giáo điều Tống Nho phong kiến, kiềm tỏa trong lũy tre làng mạc…

 

Người ta ví mảnh đất Việt hình chữ S hai đầu là hai thúng gạo, ở giữa là đòn gánh. Hình ảnh rất tiêu biểu, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu, ruộng lúa phù sa nuôi sống triệu triệu dân.  Đòn gánh Trường Sơn gánh trĩu, gánh nặng quá, suốt 200 năm, từ đời Gia Long thống nhất lần đầu, đến thời cờ đỏ thống nhất lần hai, hai lần giống nhau, thúng gạo hai đầu dân tình đồng bằng có nhu cầu tương đồng. Nhưng thúng gạo mới đồng bằng Cửu Long so với đồng bằng Hồng Hà, phì nhiêu gấp bội, tôm cá vớt lên là có ăn, mật độ dân số chưa đẩy tới nạn kèn cựa sát phạt nhau, phải đấu tố nhau.  Một bữa cơm thường ngày của một tiểu công chức miền Tây, thời 1960-70, một tô canh chua thật lớn, tôm càng nướng… còn thịnh soạn hơn bữa ăn một nhà giầu quan chức ở miền Bắc thời xưa.  Nếp sống thảnh thơi, không mưa phùn gió bấc, tạo nên một xã hội Việt Nam mới, rộng lượng, hiền hòa, có thực tất vực được đạo.  Dân no bụng mới hướng về đạo nghĩa, cho nên miền Nam, Tiền giang Hậu giang, lại là nơi tiếp tục dòng đạo lý cổ truyền dân tộc, dân tình chất phác lễ độ, trọng và nghe những ông thầy có học, có tu… Thất sơn linh thiêng, Bà Ðen huyền bí, Phật Thầy Tây An vào thời Tây sang, Hòa Hảo, Cao Ðài vào thời kháng Pháp, khất sĩ Tiểu thừa sâu rễ bền gốc khắp nẻo, rồi đến ông Ðạo Dừa… tạo một dòng đạo sĩ đôn hậu, mang chút kỳ bí, có dân dã bao bọc tin cậy tôn kính đi theo, sinh hoạt hồn nhiên trên vùng đất mới.

 

Ðiểm nổi bật của nhân sĩ miền Nam, thế hệ cũ, là nét đạo sĩ, hiền, thẳng, không quanh co, ăn nói mộc mạc chân tình, ruột để ngoài da, không mưu đồ hiểm hóc. Thế hệ cụ phối sư Trần Văn Quế, cụ Trần Văn Hương (Cao đẳng Sư phạm Ðông dương)… là thế hệ đạo sĩ miền Nam, đậm nét Nho phong Võ Trường Toản, Phan Văn Trị, rõ nét mộc mạc có sao nói vậy..  Hình ảnh cụ Hương trên TV ngày cuối tháng 4, 1975, khi trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh, thật cảm động và khó quên.  Tay cụ run rẩy, ứa nước mắt:

 

Đại tướng giờ đây lấy thế gì mà nói chuyện với bên kia? Thế này là thế mất nước…”

 

Tính hào sảng khí khái cương trực của kẻ sĩ còn để lại trong nhân sĩ già Ðồng Nai! Hồ Hữu Tường, trước sau ngồi tù 17 năm, có nét khảng khái của kẻ sĩ, có nếp đạo sĩ muốn vượt thế thời, dù là vượt trong tâm thức.  Thế hệ sau ông, như Nguyễn Văn Bông, Trần Văn Văn, Nguyễn Ngọc Huy,… giữ phong cách tâm tư tân Nho tuy không còn nét đạo sĩ của thế hệ trước:

 

“Người Pháp chuyện gì cũng tính sai.  Hồi 1930 Nguyễn Thái Học chỉ đòi tự trị cũng không cho; tới thời 1947-48, Việt Nam đòi độc lập thì lại cho liên hiệp!…”

 

GS Nguyễn Ngọc Huy (1976 tại Boston) có cái nhìn thời thế của một nhân sĩ Đồng Nai, miền Nam có những nét mới mà miền đất cũ, Bắc, Trung không có; thoáng hơn, phong phú hơn.  Tâm thức miền Nam là tâm thức của người có cá thiệt chứ không giả dối vờ vịt bịp bợm ăn cá gỗ… mang cái khung cũ mục trùm lên khung mới thì không ổn.  Những chính quyền, từ ông Diệm, ông Thiệu, đều đánh giá sai miền Nam và khối dân miền Nam.

 

Nghĩ lại, giá mà chiến lược thời 1960 giữ vững thúng gạo Cửu Long làm cơ bản sâu rễ bền gốc mà chiến đấu, tôn trọng đạo trường tâm tư Ðồng Nai, mới có thế dân mà đối đầu với ý thức hệ duy vật cơ tâm… Còn nếu chỉ coi nhẹ cái bụng, coi thường áo vải áo nâu, thì lấy nội lực gì giải phương trình Tư bản-Cộng sản?

 

Cho nên trong hiện tại và tương lai, sức kéo Việt Nam khỏi vũng lầy cổ hủ phong kiến, sức đổi mới xã hội, nhất thiết nằm nặng ở miền Nam chứ không ở miền Bắc.

 

Thật vậy, văn hoá cổ Nam Á Đa đảo (Austro Malayo Polynesian) vốn thuần hậu, thật thà, thẳng thắn, khác nhiều với văn hoá phương Bắc (loại Mongoloid) – trong đó có Bắc, Bắc Trung Việt, Tầu, Hàn, nặng về tri thức, biện luận, cãi cọ, thiếu về tình cảm, thiếu thật thà, thiếu phá chấp.

 

Nhìn văn hoá Tầu, CSVN hiện tại và văn hóa miền Nam bộ thì thấy tương phản rõ rệt: Bên thì  lươn lẹo, lắt léo, luồn lọt, lấn lướt, la lối như thói đi xe máy leo lề, lách lẹBên thì thẳng thắn, không biết chửi mất gà, không biết từ ngữ điên đảo tuyên truyền.  Cho nên người ta nhận định: Giá có mang cái trò tố khổ ở miền Bắc vô Nam thì chắc chắn cũng thất bại, vì dân miền Nam không biết chửi đểu, quá lắm thì chửi đến Đ.M. thôi, chứ không xỉa xói chửi mất gà cấp số nhân kiểu “Cha Tiên Sư Bố Mày…” như ở ngoải! Chưa kể Phật giáo Đại thừa Bắc tông khác xa với Phật Tiểu thừa Nam tông, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Miên, Lào.  Tu sĩ khất thực, tu thật, không tu giả, thân giáo, khổ hạnh, khó mà bày trò quốc doanh khoác áo lộn sòng.  Ngay Mã Lai, Nam Dương, Hồi-Ấn giáo, cũng không chịu ảnh hưởng Khổng Mạnh Bách gia đa ngôn láo lếu!

 

Sài Gòn với chất tứ xứ, vừa Việt, vừa Tàu, vừa Miên, vừa Pháp, một melting pot, một sức sống mới nhiệt cuồng mà miền Bắc, miền Trung không có.  Hãy tạm ví Sài Gòn như một Nữu Ước, phóng khoáng mở tung các cửa đón mọi luồng gió, quốc tế hơn là duy dân tộc cổ điển.  Mấy cái đầu cao ngạo, từ Hà Nội, từ Nghệ An, từ Quảng Trị, từ Huế vào… bỗng hoảng vì kiểu cách vô chiêu của văn hoá Sài Gòn, bỗng thấy mình quê kệch, hẹp lượng, cứ ngỡ mình là “đỉnh cao trí tuệ,” học chỉ tới cấp tiểu học mà cứ đòi hiểu Mác tiến sĩ triết học! Có người nhận xét người miền Nam hồn nhiên không màng từ ngữ cao xa nên nghe tuyên truyền rởm không lọt vào tai; không biết chửi mất gà nên cũng chẳng thể biết cách tố khổ bà con lối xóm.  Cái tếu của dân miền Nam đã pha loãng tất cả giáo điều ngôn từ thùng rỗng lòe loẹt.

 

 

*

 

Sử gia Pháp, Philippe Devillers, đã đặt hình hai lãnh tụ Bảo Đại và Hồ Chí Minh trên bìa cuốn Sử “Histoire du Viet Nam,” hai mặt tả, hữu, nhưng phải kể những nhân vật địa phương, tầm vóc nhỏ hơn, kiểu Lương Sơn Bạc như Bẩy Viễn, Ba Cụt, Năm Lửa; kiểu đạo sĩ như Huỳnh Phú Sổ, Hộ Pháp Phạm Công Tắc; kiểu lãnh tụ mật khu như Trình Minh Thế… hầu hết ở miền Nam; và lịch sử phải đánh giá lại công trình của những nhân vật này, ít nhất họ cũng đã lôi cuốn được quần chúng dân dã không để lọt vào guồng máy tuyên truyền dựa trên sân hận đấu tranh thù oán của phe Cộng.  Ít nhất họ cũng lập được những chiến khu vừa chống Pháp vừa chống Cộng.  Cuộc biểu tình 200,000 người đòi dân chủ đầu tiên của Việt Nam nhân lễ quốc táng cụ Phan Chu Trinh vào năm 1926 xẩy ra ở Sài Gòn chứ không ở Hà Nội ở Huế hay ở Nghệ Tĩnh; Cuộc biểu tình ở Vườn Lài (vườn Tao Đàn sau này) của Nguyễn An Ninh, Trần Văn Thạch chống Thực dân Pháp xẩy ra từ năm 1928, trước khởi nghĩa Yên Bái hai năm. 

 

Xét ra quần chúng miền Nam đã làm hơn và làm trước những đảng phái quốc gia ở miền ngoài.  Các tổ chức miền Nam giữ được dân, không để CS một mình một chợ, không thu hẹp trong khối trí thức “nói nhiều hơn làm…”  Suốt thời kháng chiến có lẽ chỉ có hai nhân vật quốc gia hành động đúng, là Huỳnh Phú Sổ và Trình Minh Thế.  Họ có quần chúng, có chiến khu.  Tây cũng nể mà Cộng cũng kiềng.  Anh em họ Ngô sau này – xuất thân hàng trưởng giả – không nhìn ra tầm quan trọng của đáy lòng bình dân, không cảm được niềm tự hào của người dân đất mới, họ sống với sông lạch bóng dừa miệt vườn kỳ bí, mầu nhiệm, với lãnh tụ huyền thoại của lòng họ.  Diệt huyền thoại là giết lòng dân, là đẩy dân sang huyền thoại khác, bá đạo, lừa dối, tai hại hơn nhiều. 

 

*

 

Sau một thời gian xoá sổ Miền Nam, Hà Nội bắt đầu thấy sức mạnh tiềm tàng mà vô chiêu của con dân Đồng Nai; một loạt các nhân vật CS miền Nam được đưa lên: Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, chủ tịch Quốc hội… Đây là một cách xoa dịu lòng dân miền Nam bất mãn. Hồi ký gần đây, của nhiều tác giả miền Nam (như Vi Thanh, Huỳnh Văn Lang…), vẫn không quên thời 1940 khi các nhân vật như Thọ, Duẩn, Nguyễn Bình… từ vùng Bắc, Trung vào Nam khuấy động, nhất là khi chính phủ Trần Trọng Kim, năm 1945, thả cả ngàn tù nhân CS từ Côn Đảo về Nam phần nằm vùng . 

 

Việt Nam đang cần một loại mô hình văn hoá khả dĩ thay thế văn hoá cằn cỗi phía Bắc và nhất là giáo điều Mác Lê. Loại mô hình này chính là văn hoá chân thật, đôn hậu, giản dị, vui sống của Cửu Long Đồng Nai, nơi hơn 200 năm trước, bao lớp ngưỡi bình dân Việt đã Nam tiến, khai khẩn phát triển để ngày nay ta có một miền vừa mới, vừa giầu, đất lành chim đậu. Một triệu người Bắc di cư 1954 đã chuyển hoá thành dân miền Nam.  Bắc kỳ chín nút! thế hệ thứ II, thứ III, không còn dấu vết quê cũ  Quân cán Việt Cộng sau 1975, ngẩn người, dần dà nhìn thấy nếp sống tử tế của miền Nam, nhiều người âm thầm vào Nam lập nghiệp, từ Cao nguyên xuống Vũng Tầu, Rạch Giá, Đồng Tháp…  Ngay Cần Thơ bây giờ cũng không thiếu những người miền Bắc, Bắc Trung vào, những người lánh nạn đi tìm đất sống, an lành, tử tế hơn.

 

Con người vốn mang sẵn tính Thiện lẫn Ác.  Mầm Thiện hay Ác mọc lên tuỳ môi trường sống. Miền Nam vốn là đất lành, không thiếu ăn thiếu mặc, từ lâu đã là đất tốt để gieo mầm Thiện, là đất Bụt đất Mẫu.  Dần dần Thiện sẽ chuyển hoá nổi căn Ác, dẫn đầu diễn trình cảm hoá toàn dân, một thế hệ nữa, khoảng 2040, chẳng còn Bắc với Nam, Quốc hay Cộng, khung trời Việt sẽ sáng toả từ Cửu Long sang toàn vùng Đông Nam Á, góp mặt cùng các nước Nam Á Đa đảo “thuần hậu bình dị hoan hỉ địa.”  Đến khi ấy không biết đất Giao Châu cũ đã nhập Tống hay chưa!?

 

 

Hạ Long Bụt sĩ

  

Trần Văn Giang (ghi lại)

 

Văn Hoá Nam Bộ Là Tương Lai Của Việt Nam – Hạ Long Bụt Sĩ

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *