Tìm Hiểu Đàn Bà Con Gái Qua Tướng Thuật

.

 

*

 

Lời giới thiệu của người sưu tầm

 

Giời ạ!  Bài này dài lắm, tôi chỉ xin tạm trích một đoạn thôi; và quý vị nếu đọc đã thấy mệt nghỉ rồi!!! Nhưng cũng nên ráng đọc cho hết để có lúc, phải dùng đến (vì có nhiều điểm khá tốt!) trong trường hợp cần tự giúp mình (và con trai) và thân nhân, bạn bè tìm bạn gái, lấy vợ (vợ cả vợ hai đều là vợ cả!); hay chỉ đơn thuần dùng để bàn loạn, đấu láo (!) lúc trà dư tửu hậu (?)… Hiển nhiên cuộc đời quý vị đã được chia sẵn làm 2 giai đoạn: Giai đoạn bần cùng và giai đoạn… khốn khổ (j/k)

 

TVG

 

*

 

Cuộc sống của nam tử được phân làm 4 giai đoạn chính sau:

 

1 – Định học

2 – Định tình

3 – Định nghiệp

4 – Định tử

 

Từ 10 đến 20 nên tìm Thầy mà học.

Từ 20 đến 30 nên tìm vợ cho yên bề tình cảm.

Từ 30 đến 40 nên sắp xếp cho con đường sự nghiệp.

Từ 60 đến… nên nghĩ về cái chết của mình sao cho xứng đáng.

 

Định tình là lấy vợ. Định tình mà sai đôi khi có thể làm hỏng hết cuộc đời. Người đàn ông không thể không thận trọng. Muốn thận trọng hãy suy ngẫm câu phương ngôn lâu đời của các cụ xưa:

 

“Trông mặt mà bắt hình dong,

Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon.”

 

 

I – CÁI ĐẸP CỦA MẮT TỤC VÀ CÁI ĐẸP DƯỚI MẮT CỦA THẦY TƯỚNG

Cái đẹp tục nhãn thường thấy qua miệng các nhà văn như Lý Bạch từng ca tụng Dương Quí Phi bằng những câu thơ:

 

“Xuân tưởng nghê thường hoa tưởng dung…
Nhất chi nùng diệm lộ ngưng hương…”

 

Hoặc trong bộ kinh ái tình của Ấn Độ tán tụng:

 

“Nàng uyển chuyển như con thiên nga, khoan thai yểu điệu. Đôi mông tuyệt diệu; đó là một trái Nitambini. Nàng đen tựa như một nụ sen, đẹp như Rathi nữ thần của khoái lạc.”

 

Người Tây Ban Nha (Spaniard?) nói người đàn bà muốn hoàn toàn đẹp phải hội tụ đủ 30 (?) điều kiện:

 

Ba thứ trắng: Da, răng và đôi bàn tay.
Ba thứ đen: Mắt, đôi mi và đôi mày.
Ba thứ đỏ: Môi, má và móng tay.
Ba thứ dài: Thân, tóc và tay.
Ba thứ ngắn: Răng, tai và đôi bàn chân.
Ba thứ nở: Ngực, trán và mi mắt.
Ba thứ hẹp: Miệng, eo và gót chân.
Ba thứ bụ bẫm: Cánh tay, đùi và bắp chân.
Ba thứ nhỏ: Núm vú, mũi và đầu.

(Chú thích: Tôi đếm lại thấy còn thiếu 3 thứ nữa mới đủ số 30 hè; Hổng hiểu chạy đâu mất tiêu nhỉ?)

 

Thi sĩ Ronsard say sưa tả mỹ nhân:

 

“J’aime la bouche imitante la rose
Au lent solei de Mai déclose.”

 

Tướng lý đã chẳng khác chi một gáo nước lạnh dội vào mặt văn chương cho văn chương tỉnh mộng nhìn vào thực tế tàn nhẫn. Sách tướng đưa ra quy luật:

 

Mỹ nhân thường tác kỹ (người đẹp thường hay làm điếm).”

 

Nếu ta đi vào các vũ trường, các nhà hát cô đầu hoặc những chốn ăn chơi tất không ai phủ nhận rằng nơi ấy có nhiều người đàn bà đẹp theo con mắt tục hơn là vào một dạ hội gồm các bà lớn tụ hội.

Nếu ta lại tách riêng mười kỹ nữ ra, ta sẽ dễ dàng tìm thấy từ 4 đến 8 người đẹp (tục nhãn), còn nếu nhìn các bà vợ của cả một nội các thì phải khó khăn lắm mới thấy vài ba mỹ nhân!

Tướng nhãn và tục nhãn khác biệt hẳn nhau ở điểm này. Nhưng chính tướng nhãn và tục nhãn lại gặp nhau trên một điểm khác đó là vẻ đẹp hoàng hậu, vẻ đẹp công chúa. Tuy nhiên vẻ đẹp ấy cực hiếm không phải lúc nào cũng có. Vẻ đẹp ấy là vừa đẹp người vừa đẹp tướng. Tại sao đàn bà có nhan sắc thường hay làm điếm?

 

Sách tướng giảng rằng:

 

Mỹ nhân thường tác kỹ, mỹ trung hữu chí sũ
(Đàn bà nhan sắc làm điếm bởi trong vẻ đẹp có cái cực xấu).

 

Cực xấu ấy mệnh danh chuyên môn là “phá tướng.” Tỷ dụ như diện mạo rất đẹp nhưng tiếng nói rè rè như lệnh vỡ; thể thái mảnh mai mà bước đi nặng nề như đàn ông; môi má trắng sạch mà thân thể lại ô cấu, hôi hám, hoặc tóc không cứng, hoặc tay mềm nhũn như không có xương. Rõ hơn nữa, gái điếm phần lớn đều có tướng trán rất xấu: thấp quá, hẹp quá, lệch lạc, không bằng phẳng, hoặc khoảng chân tóc không đều đặn, thiên sương (bộ phận từ góc trán thái dương) hãm hay óp, ấn đường (khoảng trên sống mũi giữa hai đầu chân mày) quá hẹp, lõm sâu. Trán là thuộc vận hành từ 16 đến 21 tuổi, cũng là khoảng tuổi dễ bước chân vào nghề kỹ nữ.

Về phá tướng có một chuyện điển hình là chuyện nàng ca kỹ Hạnh Xuân tại xóm ăn chơi Bát Đại Hồ Đồng, Bắc Kinh đời vua Quang Tự nhà Thanh.

Nhìn Hạnh Xuân từ diện mạo đến thể thái không ai không nghĩ nàng là một quý phu nhân, vừa đẹp vừa đoan trang bất luận đi đứng, ăn nói, nằm ngồi nhất nhất đều đều không bợn một cử chỉ thô tục, không lộ một vẻ dâm tiện. Thế mà Hạnh Xuân lại là một kỹ nữ. Có điều nàng rất nổi tiếng, những người đến với nàng hầu hết là đại quan quí nhân, giang hồ khí phách, phong lưu văn sĩ hay đại phú thương.

Thường thường một danh kỹ tiếng tăm như thế không bao giờ hành nghề quá một năm là đã theo về các hào tộc phú gia để làm thiếp hầu. Lạ lùng thay Hạnh Xuân ở Bát Đại Hồ Đồng có tới ba năm trường.

Một hôm, trong đám người yêu Hạnh Xuân cuồng nhiệt có vị phú thương ở Sơn Tây họ Hạ, muốn cưới Hạnh Xuân về làm thiếp. Giá cả chuộc Hạnh Xuân tuy rất cao nhưng đối với ông ta chẳng thành vấn đề. Hệ trọng nhất đối với phú thương họ Hạ trái ngược với thường tình lấy thiếp mong con, ông ta không muốn Hạnh Xuân có con bởi vợ cả và người thiếp đã sản xuất cho gia đình nhà ông tám chín mạng rồi. Ông say mê vẻ đẹp mê hồn của Hạnh Xuân mà người đàn bà sinh đẻ sắc đẹp dễ tàn phai, làm thế nào biết chắc Hạnh Xuân không sinh hài tử? Số Bát tự của nàng vì sớm lưu lạc từ ấu thơ nên chẳng ai biết. Chỉ còn cách xem tướng. Họ Hạ bèn mở tiệc mời một vị túc nho rành tướng số đến xem cho Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh (tên vị túc nho) uống vài chung rượu do Hạnh Xuân tiếp rót, ông định thần ngắm nghía nàng hồi lâu rồi ghé tai nói nhỏ với Hạ phú thương rằng:

– Tôi khuyên ông không nên lấy Hạnh Xuân, tuy đẹp nhưng tướng cách nàng nhất định không thể sinh con đẻ cái được.

Lời nói của Mạc tiên sinh làm cho phú thương họ Hạ rất vui mừng nên hỏi thêm:

– Hạnh Xuân còn tướng xấu nào khác nữa?

Mạc tiên sinh đáp:

– Thật quái lạ! Tướng mạo biểu diện của Hạnh Xuân đúng là một quý phu nhân ít nhất cũng từ tam phẩm trở lên mà sao lại luân lạc chốn lầu xanh. Tôi chưa tìm ra nguyên do. Lẽ ra bây giờ nàng đã lấy chồng bậc quí nhân chứ không phải lấy ông chồng là phú thương.

Họ Hạ tự tay rót rượu mời Mạc tiên sinh và xoắn suýt xin Mạc tiên sinh cố tìm kiếm lý lẽ ba đào của Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh lại ngắm nghía hồi lâu rồi lắc đầu nói:

– Không thấy! Chắc Hạnh Xuân có một điểm phá tướng ẩn kín đâu đó?

Nhân dịp Mạc tiên sinh lưu lại Bát Đại Hồ Đồng cùng Hạ phú thương mươi bữa, ông có dịp cùng Hạnh Xuân đàm đạo mới đem chuyện tướng ra nói. Mạc tiên sinh bảo Hạnh Xuân:

– Cứ xem tướng mạo của cô thì phải ở ngôi tam phẩm phu nhân mới phải, thế mà chẳng hiểu có điểm phá tướng nào đã khiến cho cô lâm vào chốn giang hồ!

Lần khác Mạc tiên sinh cùng Hạnh Xuân nói chuyện lâu hơn và lần này cuối đường hầm đã có tia sáng. Ông già hơn năm mươi tuổi suốt buổi không hề mót tiểu tiện mà cô gái mới 19 xuân xanh chốc chốc lại phải cáo lỗi! Lúc đó đương vào hạ tiết, “đa hạn thiểu thuỷ” (nhiều mồ hôi, ít tiểu tiện) mới phải. Đúng rồi! Đây gọi là “ám trung tiết khí” sách tướng ghi rành rành. (“Ám trung tiết khí” này có nhiều loại, đây chỉ là 1 trong số!)

Mạc tiên sinh ghi nhận điểm phá tướng đó, tiết lộ với bạn của Hạnh Xuân là Hồ Ngọc kể cho biết thêm chẳng những Hạnh Xuân có thói quen luôn luôn tiểu tiện mà thôi; cả việc đại tiện cũng khác người ta, mỗi lần nàng làm công việc đó tưởng chừng như xổ ruột. Tiểu tiện đại tiện chẳng phân biệt trước sau ào ào rơi xuống như hắt chậu nước. “Mỹ trung hữu chí sũ” là như vậy!

 

Sách tướng viết:

Sũ nữ gia quý phu, sũ trung hữu đại mỹ
(Nghĩa là gái xấu lấy chồng sang, trong cái xấu có cái cực đẹp).

 

Trên tướng thuật nhìn cái đẹp theo nhãn tuy có điểm tương đồng nhưng ở mặt khác lại có điểm tương phản, cho nên quan điểm và quan niệm về Đẹp của tướng nhãn thường thường xung đột với quan điểm và quan niệm của tục nhãn.

Tỉ dụ như vẻ đẹp của mỹ nhân là da thịt mềm mại êm như bông hay “thiên kiều bách mị.”  Thế nhưng tướng lý cho như vậy là dâm tiện. Nếu cứ theo tục nhãn để định thì cuộc đời tất có ngày hố to!

Dĩ nhiên những vẻ đoan trang, thuỳ mị, nhàn tĩnh, hoa quý, trong sáng thì tướng nhãn và tục nhãn đều cùng một quan niệm và quan điểm. Tuy vậy qua kinh nghiệm và thực tế đầy rẫy ngoài đời thì người đang bà ở vị nguyên phối (vợ lớn) ít người đẹp theo tục nhãn mà người đàn bà ở địa vị trắc thất (vợ bé) thì nhiều người đẹp theo quan điểm tục nhãn. Các cụ cổ khôn lắm nên đặt lệ:

 

Thủ thê thủ đức (lấy vợ lấy đức)
Thủ thiếp thủ sắc (lấy thiếp, vợ lẽ, lấy sắc)”

 

Cũng lạ là hồng nhan bạc mệnh hay phong lưu khuyết đức phần lớn ứng vào thân phận thiếp mọn.

 

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”

 

Ấy vậy mà kẻ đắp chăn bông thường không đẹp bằng kẻ chịu lạnh, kẻ chịu lạnh đa số có sắc, tướng, mỹ. Đã có sắc, tướng, mỹ thì cũng đa số vướng vào cảnh “hoa tường liễu ngõ” nên mới gặp kẻ tìm hoa hỏi liễu để trở thành thân lẽ mọn.

Cho nên, về tướng lý, chỉ đẹp sắc không phải là quý tướng. Chẳng phải ngàn xưa mới thế, ngày nay cũng vậy. Các minh tinh màn bạc chưa lấy chồng đã nổi tiếng nhiều chồng. Và khi lấy chồng các minh tinh gần như chẳng bao giờ ở địa vị nguyên phối. Hồng nhan, phong lưu, khuyết đức, bạc mệnh theo tướng lý vẫn hằng liên hệ với nhau.

Trái lại, những người đàn bà ở ngôi vị nguyên phối không phải là người có sắc tướng mỹ mà là người có tướng cách mỹ (đẹp tướng). Bởi tại tướng cách mỹ ít người nhìn ra nếu không biết tướng thuật nên phê phán qua tục nhãn bằng hai chữ “xấu xí.”

Hồi Ngô Bội Phu còn làm mưa làm gió trên chính trường Trung Quốc (thời mạt Thanh sắp xảy ra cách mạng Tân Hợi), có mở bữa yến tiệc lớn mời khắp mặt vai vế đương thời. Trong số đó có nhà coi tướng họ Đàm. Theo những biên chép của vị tiên sinh coi tướng ghi lại thấy bữa tiệc ấy như sau:

“Nhờ bữa tiệc này tôi thể nghiệm rõ ràng nguyên tắc tướng pháp về lẽ xấu đẹp của người đời. Tôi thấy ở đây, ngoại sảnh để tiếp loại thiếp hầu thì ai ai cũng mặn mà quyến rũ nhưng nhìn kỹ chẳng một người là con nhà phiệt duyệt hay khuê các. Phảng phất chỉ có “sắc thái xuất tường hồng hạnh” hoặc “tỳ bà biệt diệu” mà thôi.

Khi vào tới nội sảnh, nơi dành cho phu nhân Ngô Bội Phu tiếp các bà nguyên phối khác thì tuyệt nhiên không thấy một vết tích truỵ lạc, phong trần. Hơn 24 vị thái thái, quá nửa không có sắc tướng mỹ thì thật là “mãn thiên tinh đẩu (đầy trời sao sáng). Có người lưng lạc đà, có người cục mịch như thôn phụ, nhưng không người nào không có một tướng cách rất đẹp! Người thì một cái mũi đầy đặn giữa đôi mắt đôi mi phi thường thanh tú; Người thì tam đình (mặt chia ra làm 3 phần gọi là tam đình: từ trán xuống đến giữa hai mắt (ấn đường) là thượng đình, từ giữa hai mắt đầu sống mũi (sơn căn) xuống đến đầu mũi (chuẩn đầu) là trung đình, từ đầu mũi xuống cằm là hạ đình); Ngưòi thì ngũ quan tương phối, đoan chính minh lượng.”

 

Như vậy, theo pháp quy nạp thì “ưu điểm cửu tướng cục khả dĩ” chia làm ba loại:

 

1 – Trong xấu có điểm cực tốt (“Sũ trung hữu đại mỹ“).
2 – Cái tốt bên trong (“Nội tại mỹ“) là tính kiên trinh, ôn nhu.
3 – Thái độ bao dung.

 

Vô luận nam hay nữ, nội tại mỹ bao giờ cũng hơn cái đẹp bề ngoài. Nhất là con gái lẳng lơ càng đẹp càng hạ cách.

Nhớ đến Vương Chiêu Quân ngày xưa sở dĩ nàng phải chịu kiếp cống Hồ chắc là nàng có điểm phá tướng; cái điểm phá tướng ấy là sự thực chứ không phải Mao Diên Thọ vẽ thêm đâu!

 


II – TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ QUAN TRỌNG BẬC NHẤT

Tướng gia Tề Đông Giã kể rằng thuở thiếu niên ông theo người cậu ruột đi yến tại một nhà ở đường Tây Trực tại thủ phủ Bắc Kinh. Người cậu vốn là công chức cao cấp chính phủ đương thời, giao du rộng lớn, lại rất am tường tướng thuật. Biết tướng thuật cũng là một tài năng cần thiết để giao thiệp trong chính giới lúc bấy giờ. Bữa yến hôm ấy vấn đề tưóng số được đem ra bàn cãi sôi nổi. Đề tài đưa ra là tướng về âm thanh, nhiều người không tin rằng âm thanh có thể ảnh hưởng đến vận mạng con người như cậu tôi nghị luận (lời Tề Đông Giã). Cuối cùng chủ nhân bầy cuộc thử tài. Buồng bên trong có một bàn các bà đánh bài mạt chược, tấm màn che kín. Chủ nhân yêu cầu cậu tôi lắng nghe tiếng nói của 5 bà trong đó để đóan vận mạng. Mọi người ngồi im nghe. Vào lúc bên buồng có ván bài ù muỗi, các bà huyên náo cả lên vì ba bà khác người nào cũng chờ mủn cun.

Ông cậu tôi bỗng nói:

– “Nữ đới nam thanh” (người đàn bà nói âm thanh đàn ông). Ai có tiếng nói ấy tất dã khắc phu.

Chủ nhân chịu ngay và nói cho mọi người biết bà ta là goá phụ của họ Tiều trong Bộ giáo dục.

Cậu tôi vẫn lắng nghe và nói tiếp:

– “Cô nhạn thất thần chi thanh tất thị ly phu!” (tiếng nói nức nở cắt đoạn chẳng khác chi con chim nhạn lạc đàn tất phải xa lìa chồng con.)

Chủ nhân hân hoan ra mặt:

– Tiên sinh đoán không sai, đó là tiếng nói của bà vợ ông Tổng lý bưu điện đã bị bọn quyền phỉ bắt đi mất tích từ 5 năm nay chẳng biết sống chết thế nào.

Cậu tôi hầu như chẳng để ý đến lời tán tụng, lắng nghe tiếp rồi nói luôn:

– “Cuồng thuyền vãn tháo sát nhị phu” (ồ ạt như tiếng ve sầu buổi chiều, sát hai chồng).

Đến đây thì chủ nhân hoàn toàn bái phục, ông vỗ tay khen lấy khen để rồi giục cử toạ đồng thanh yêu cầu cậu tôi giải thích.

Cậu tôi chậm rãi giảng giải:

– “Nữ đới nam thanh” là một lọai phá tướng của phụ nữ, nhưng không nhất định phải khắc phu vì cuối tiếng có âm thanh sắc nhọn làm chói tai (thích nhĩ). Bà ta lấy chồng không quá 2 năm thì chôn chồng. Nói thanh âm chói tai làm người ta nhớ lại bà Trần Lệ Xuân trong những bài diễn văn bà đọc năm 1963 hay trước đấy. Còn về “Cô nhạn thất quần chi thanh” muốn đoán cần phải rõ nó đã trở thành tiếng kêu thương chưa. Nếu chuyển rồi mà tiếng kêu thường thanh trường thì chồng chết, thanh đoản may ra người xa còn sống, đến như “Cuồng thuyền vãn tháo” tiếng đầu tiếng cuối đồng âm vốn là tướng bần tiện chứ không khắc phu. Tướng ấy chỉ khắc phu khi nào tiếng đầu tiếng cuối như có khoảng nghẹn ngào cắt đứt.

Chủ nhân chen vào nói:

– Chúng tôi bội phục tiên sinh đoán tướng 3 bà goá phụ, bây giờ đến lượt 2 người đàn bà mà tiên sinh chưa nói tới.

Trong số thực khách cũng có vài ba vị nghiên cứu tướng học nên cậu tôi quay lại thỉnh họ cho ý kiến. Thế là mấy vị kia nghe theo lời chủ nhân cùng lắng tai nghe.

Một lát, ông họ Kha nói:

– Tiếng nhẹ nhưng có lực, “vượng phu ích tử.”

Ông họ Đặng nói theo:

– Thanh âm có vận điệu, “trường thọ chi tướng.”

Và cuối cùng ông họ Ngũ:

– Nhỏ nhẹ như tiếng suối reo, “nữ nhân tài đức kiêm toàn.”

Cậu tôi nghe tất cả mọi người phát biểu xong rồi mới nói:

– Các vị đoán trên đại thể rất đúng nhưng đi vào chi tiết có điều sai. Thanh âm người đàn bà này tuy hữu lực giống tiếng nước suối reo, khốn nỗi vì thanh hơi cụt cho nên dù thừa tài năng nhưng không thể thọ. Bà ấy năm này chừng ngoài bốn mươi, tôi chắc không thể sống lâu quá năm mươi.

Chủ nhân lại hỏi đến bà thứ 5 thì các vị kia đi sau khi nghe tiếng nói của bà ta không ai đoán định được một điểm nào đặc biệt. Riêng cậu tôi đã làm cho mọi người sửng sốt khi ông nói giọng chắc như đinh đóng cột:

– Người này trước ở thanh lâu, nay làm thân vợ bé.

Lẽ ra, tướng kỹ nữ thì phải trông sắc diện mới thấy, nghe tiếng nói mà đoán ra thì thật hoang đường! Tôi không nhớ cậu tôi giảng ra sao, sau này đi học tướng thuật tôi thấy sách có ghi: “Đàn bà tiếng nói lớn mà tán mạn, tức là “Kim thanh phạt mộc chi tượng” thường ở thanh lâu hoặc hành nghề chứa gái.”

Coi tướng phụ nữ trước hết phải nghe tiếng nói rồi mới đến sắc mặt, rồi đến hình thể, rồi mới đến tâm tư. Tiếng nói đặc biệt liên hệ với tính mạng, hạnh phúc lứa đôi. Thanh âm phá thì các bộ vị khác dù tốt đẹp cũng khó lòng cứu vãn khỏi mệnh số sinh ly tử biệt với chồng con.

Tiếng nói nam tử lấy âm thanh hồng lượng làm chủ tốt, còn tiếng nói nữ tử chủ nhu hoà cần nhỏ nhẹ, có âm điệu mới hay. Tối kỵ là tiếng nói sắc nhọn chói tai nghe khó chịu. Đàn bà nói ra thích nhĩ (chói tai) thì chẳng chôn chồng cũng khóc con, đàn ông nói ra thích nhĩ suốt đời phá bại. Thanh âm thích nhĩ có hai loại: một lọai thuộc kim, một loại thuộc mộc. Khắc phu vào loại mộc thì người chồng chết bình thường, còn nếu khắc về loại kim thì người chết bất đắc kỳ tử.

 

 

“Thu có hạn sầu dài không hạn,
Cảm thu sang nhớ bạn lứa đôi.
Đoạn trường biết mấy tao nôi,
Khóc rồi lại khóc hờn thôi lại hờn.
Khúc duyên dạo dây đờn ai dứt.
Dao sầu kia cắt đứt lồng son.
Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn,
Hờn duyên tủi phận lệ còn chứa chan.”

(Tương Phố)

 

 

Những câu thơ thê thảm trên phải chăng chỉ là tiếng kêu thương của định số? Khắc sát phu ngoài thanh âm ra còn có tướng nào khác nữa?

Tướng khắc phu nặng nhất là tiếng nói! Sau mới đến các tướng khác được phân biệt như sau:

Lưỡng quyền quá cao lộ cốt; trán khuyết hãm, quá thô không tương xứng với mặt; lưỡng quyền lệch cao thấp không đều; “quyền phản” nghĩa là không chầu vào mũi. Tuy nhiên phải nhìn cho tinh tường đừng nhầm quyền rộng, đầy đặn với quyền cao. Lưỡng quyền đầy đặn là tính lan ra từ sát làn ranh của tai, vòng xương hàm xuống đến lằn ranh của miệng làm thành một khoảng to lớn sáng đẹp thì lại là tướng quý phu nhân nếu cộng thêm với cái mũi tốt.

Trán dài, trán vẹo, trán khuyết hãm, trán có ba vết răn bị tạp văn phá, trán có xoáy tóc như trôn ốc. Mắt lộ tứ bạch (bốn phía trắng), mắt đỏ, mắt vàng, mắt lồi, lông mày mỏng tản mạn, giao nhau.

Tóc xoăn (khô xoăn chứ không phải ra tiệm uốn quăn đâu nha), tóc dầy nặng, chân tóc vượt quá về đằng sau trán, tóc cứng.

Môi cuốn, răng lộ, miệng chụm như thổi lửa (“khẩu suy như hoả”), miệng lệch.

Xương cốt to thô, vai so.

Mặt gầy sác lộ gân, mặt nhiều lông, mặt trì lệ như sáp.

 


III – LUẬN VỀ TƯỚNG HỒNG NHAN BẠC MỆNH

Mở đầu tập Chinh phụ ngâm ông Đặng Trần Côn viết:

 

“Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân.”

Bà Đoàn Thị Điểm dịch:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.

 

Hồng nhan bạc mệnh đã thành thiên cổ tục ngữ.

Hồng nhan đa truân là lẽ thường tình trong vấn đề nhân sinh.

Bạc mệnh là chết sớm, chết non, phận mỏng, lao đao. Đa truân nghĩa là phiêu bồng, lãng đãng.

Hồng nhan là những người đàn bà trời ban cho một sắc đẹp cực kỳ diễm lệ. Hồng nhan cũng là những người đàn bà trời ban cho một tâm hồn mẫn tiệp tài hoa thu hút nam phái.

Thiên địa phong trần là cơ duyên để tạo thành những cảnh thảm sầu bạc mệnh và đa truân.

Về tướng thuật trước hết hồng nhan có liên hệ phần nào đến tướng khắc sát chồng.

Tại Trung Quốc có lưu truyền từ lâu đời một truyện thơ ngụ ngôn kể rằng:

Có ba vị lão nhân ngồi uống rượu, đánh cờ bên dòng suối vẻ mặt ai nấy đều thanh thản, vui sướng. Có người đến chắp tay hỏi ba cụ về cái thuật trường thọ. Thì thấy ở trong thơ ghi câu: “Thất trung lão ẩu xũ” (nghĩa là “Trong nhà vợ già xấu”). Cả ba cụ nói:

– Nhà ngươi có biết câu tục ngữ “Hồng nhan bạc mệnh” không? Các lão đây sở dĩ thọ là bởi tại vợ các lão đây không thuộc loại hồng nhan.

Người kia ngạc nhiên hỏi:

– Trường thọ với lão bà có chi quan hệ? Lấy vợ đẹp chẳng phải một đại hạnh trên đời sao?

Cả ba cụ đều lắc đầu quầy quậy:

– Không đâu, không phải là đại hạnh đâu. “Hồng nhan bạc mệnh yêu khắc phu.

Hai chữ bạc mệnh ở đây là phận mỏng trên phương diện khắc phu.

Sách tướng nói:

“Tất cả những gì thái quá cũng không tốt! Sắc đẹp quá hay xấu quá đều thuộc tướng sát phu nếu chính bản thân người đó không yểu!”

Bạc mệnh không chỉ đơn thuần là non yểu như người ta vẫn quan niệm đã thành thói quen từ lâu nay.

Đa truân vốn là nghiệp dĩ của hồng nhan, nếu người đàn bà hồng nhan có nhiều tiện tướng hay dâm tướng (sẽ giải thích ở sau). Có thể nói khác đi cái đẹp là nguyên nhân của đa truân, còn ai đa truân bằng những danh kỹ và nếu không đẹp thì làm sao trở thành danh kỹ?

 

“Nhất song ngọc tí thiêm nhân trẩm
Bán điểm chu thần vạn khách thường. “

Dịch là:

“Đôi cánh tay ngọc cho vạn người gối
Nửa vành môi đỏ để vạn nguời hôn.”

 

Không lẽ bọn phong lưu hoa công tử đổ xô đi gối tay người hôi nách xấu xí, để thưởng thức cái môi sứt hay sao?

Thiên nhân trẩm và vạn khách thường xưa nay vẫn là nghịch cảnh vạn cổ sầu của hồng nhan vậy.

Sách tướng nói:

 

“Người đàn bà cần có vẻ đẹp đoan trang, quỷ quái (hihi nhầm, quý phái) và rất kỵ vẻ đẹp yêu mị tiện cách. Nếu đẹp yêu mị tiện cách thì đó chính là đẹp hồng nhan bạc mệnh.”

 

Nói đa truân, nói bạc mệnh không phải chỉ ở địa vị tầm thường như ca kỹ hay bần gia nữ mới phải gánh chịu. Một khi đã phạm tướng hồng nhan bạc mệnh rồi thì dù ở địa vị tột đỉnh cũng chẳng tài nào tránh khỏi!

Như cuộc đời nàng Lục Châu vợ của phú gia địch quốc Thạch Sùng. Quê Lục Châu ở Hợp Phố nơi sản xuất những ngọc quý, nàng họ Lương. Lịch sử ghi chép nàng là một mỹ nhân nổi tiếng đời Tấn. Các tay buôn ngọc đồng ý với nhau lấy tên Lục Châu là một loại ngọc quý nhất, đắt nhất mà đặt tên nàng. Đương thời có một triệu phú danh tiếng giàu có thành điển cổ của Trung quốc tên là Thạch Sùng nhân lần viếng thăm nước Giao Chỉ, lúc về qua Hợp Phố (thuộc tỉnh Quảng Tây) đã gặp nàng Lục Châu. Thạch Sùng cậy người mai mối với sính lễ ba đấu ngọc lớn đắt vô kể. Cha mẹ nàng thuận gả cho Thạch Sùng làm ái thiếp. Thạch Sùng đem nàng về đất Lạc Dương ở tỉnh Hà Nam, ở đây Thạch Sùng có một dinh cơ cực kỳ mỹ lệ là Kim Cốc Viên nơi mà nhiều danh hoạ đã từng lấy làm đề tài cho hoạ phẩm. Trong Kim Cốc Viên mỹ nhân nhiều như mây tụ, nhưng từ khi có Lục Châu đến thì sắc đẹp của mọi người lu mờ ảm đạm hết, Thạch Sùng giao du quảng bác, từ khi được Lục Châu quán xuyến công việc giao thiệp thì Kim Cốc Viên càng nổi danh. Trong đám bạn bè lai vãng của Thạch Sùng có tên Tôn Tú là người thân tín của Triệu vương Tư Mã Luân. Tôn Tú mê Lục Châu đã nhiều lần chọc ghẹo Lục Châu bị nàng cự tuyệt, Thạch Sùng nổi giận cấm cửa Tôn Tú, Tôn Tú oán giận. Nhân cơ hội Thạch Sùng không ủng hộ Triệu vương trong sí đồ thoán nghịch, Tôn Tú xúi Triệu vương mang quân đánh Kim Cốc Viên bắt giết Thạch Sùng, nàng Lục Châu chạy lên lầu cao nhảy xuống tự vẫn. Cái chết của Lục Châu trở thành một kịch phẩm hay của Văn học Trung Quốc, đó là vở kịch Trụy Lâu.

 

Một chuyện khác nữa là chuyện Mai Phi:

 

Mai Phi là một phi tần rất được sủng ái của Đường Minh Hoàng. Nhưng từ khi Dương Thái Chân tức Dương Quý Phi vào cung thì Mai Phi bị thất sủng.

Nàng sinh ra đời ở Mai Hoa thôn tên thực là Giang Thái Tần do Cao Lực Sĩ tuyển về Trường An. Đường Minh Hoàng vừa trông thấy là mê luyến ngay. Nhân vì nàng yêu hoa mai nên Đường Minh Hoàng gọi nàng là Mai Phi. Mai Phi có sắc dáng mảnh dẻ và hai mắt sáng như viên ngọc. Về sau Đường Minh Hoàng đổi tính yêu người bụ bẫm (!) là Dương Quý Phi nên xa lánh nàng. Vì Dương Quý Phi có tính ghen ghê gớm, bởi vậy Đường Minh Hoàng đôi lúc nhớ đến sủng phi cũ thì cũng không dám bén mảng đến Thượng Dương cung nơi nàng ở. Một lẫn, có sứ thần dâng vua đôi trân châu, Đường Minh Hoàng tưởng nhớ Mai Phi, lén gọi người thân tín đem lại tặng nàng. Mai Phi buồn rầu không nhận gửi trả lại cùng với 1 bài thơ như sau:

 

“Liễu diệp song mi cửu bất miêu
Tàn trang hoà lệ ố hồng tiêu
Trường môn tự thị vô sơ tẩy
Hà tất trân châu uỷ tịch liêu.”

Dịch là:

“Lâu rồi không vẽ chân mày lá liễu
Quần áo xưa đã hoen ố lệ buồn
Cửa ngõ căn phòng không còn lau rửa
Thì cần gì châu ngọc để vỗ về nỗi cô đơn.”

 

Về sau, An Lộc Chân khởi loạn, Đường Minh Hoàng phải rời kinh đô chỉ mang theo Dương Quý Phi. Mai Phi ở lại bị giết trong cơn binh lửa.

Lịch sử tướng thuật chép: Mai Phi và Lục Châu đều có đôi mắt “Nhãn lệ uông uông,” lúc nào cũng ướt như đầy nước mắt. Đó là một phạm kỵ vì theo tướng thuật người đàn bà đẹp cần có nét tươi nếu “Diện đới sầu dung” là sẽ bị “Bất đắc thiện chung.

Nói đến hồng nhan bạc mệnh người ta không thể quên cái chết của ngôi sao chiếu bóng Lâm Đại. Khi báo chí loan tin Lâm Đại tự tử, các nhà tướng số tại Hương Cảng đã thi nhau giảng luận về tướng và mệnh của nàng. Số mệnh học của Trung Quốc thường căn cứ vào tướng và số, nếu nhìn tướng có điều không giải đáp được thì phải xem số; Nếu xem số có sự gì quá khó khăn không khám phá được hoặc không dám xác quyết thì lại phải xem thêm tướng. Điểm đáng chú ý trên gương mặt của Lâm Đại là đôi mắt nàng có hung quang lại cộng thêm vào đấy tính tình của nàng rất nóng nẩy, bạo tháo. Tướng diện và tướng tâm khắng khít với nhau tạo ra một thứ đaỏn mệnh tướng cho nàng. Theo sách tướng thì mắt lộ hung quang chẳng những đoản mệnh mà còn dễ bị bạo tử hoành nghĩa là chết không toàn hoặc chết bất đắc kỳ tử. Ai đã xem phim Lâm Đại đóng tất không thể không lưu ý diện mạo nàng có ba đặc điểm:

 

1 – Quang lộ.
2 – Quyền cao.
3 – Nhãn hung.

 

Quang lộ tức tài lộ, lộ tài thường chiêu oán!
Quyền cao thường chiêu kỵ (nghi kỵ, ganh ghét)!
Nhãn hung tức tính hung, tính hung ắt chiêu hung!

 

Đàn ông mà quang lộ, quyền cao, tính hung chính là tướng du đãng giết người và bị giết, nếu không là tướng tự tử. Gia Cát Lượng khi xưa cũng mắt lộ, quyền cao nhưng vì không có tính hung nên được thiện chung.

Tướng Lâm Đại là tướng trọng hậu rất tốt, mặt nàng ít vẻ hồng nhan bạc mệnh nhưng vì tính hung đi đôi với quyền cao nhãn lộ nên kết cuộc tính mệnh bất đắc thiện chung vậy.

 

Bởi vậy, sách tướng thuật mới nói:

“Tướng do tâm sinh, tướng do tâm cải.”
(Tâm tướng ảnh hưởng rất nhiều đến hình tướng).

 

Tuy nhiên cái chết của Lâm Đại vẫn còn gây nhiều tranh luận trong giới tướng số. Họ lập luận mặc dù tính tình Lâm Đại bạo tháo nhưng nàng có vẻ đẹp trung hậu, mặc dù đôi mắt Lâm Đại chứa đầy chất hung quang nhưng nàn lại có vẻ đẹp đường mật dịu dàng. Thêm nữa nếu bảo nàng chết vì nhãn tướng thì vận mắt là 37, 38 tuổi – tất không thể chết vào vận 30 tuổi. Đó là một câu vặn hỏi có lý, cho nên nhà đoán tướng phải mượn thuật số để giải đáp.

Người Trung Quốc là cha đẻ ra Tử Vi nhưng họ không (thích) xem Tử Vi mà họ xem số Bát tự (Số Bát tự thế nào xin mời ghi danh học lớp Tử Bình). Lâm Đại sinh năm 1934 (Giáp Tuất), ngày 26 tháng 12 giờ Ngọ. Chuyển thành bát tự là:

 

Giáp Tuất Đinh Sửu Bính Ngọ Giáp Ngọ

 

Toàn số Hoả Mộc chiếm tám phần mười. Mộc trợ Hoả thái quá làm cho người mang số đó trở thành ngoạn ngạnh tư ý tạo thành kiếp khổ sinh hay hung thủ. Cho nên khi Lâm Đại chít vào đúng lúc giữa hoả viêm thổ táo, tháng 6 ngày Đinh Mão giờ Ngọ.

Hành vận 28 tuổi của Lâm Đại là Giáp Tuất, lưu niên của hành vận Giáp Tuất năm 30 tuổi là Giáp Thìn cộng mệnh số thành ra 3 Hoả 4 Mộc đốt – thế là đen thui!

Hồng nhan với hào kiệt chung một kiếp.

 

“Hồng nhan bạc mệnh.
Hào kiệt thán phiêu linh.”

 

Nhưng nếu nói theo triết lý nhân sinh thì hồng nhan mà không bạc mệnh thì thật là vô duyên mà bạc mệnh nhưng không hồng nhan thì cũng chả có gì đáng để nói! Cũng như hào kiệt anh hùng mà không phiêu linh thì cũng chỉ là những hào kiệt anh hùng “hàng mã!”

 


IV – NÓI VỀ ĐẶC BIỆT DỊ TƯỚNG CỦA PHỤ NỮ

Tướng học rất bí ảo huyền diệu nên môn học này được quan niệm là môn dễ học khó tinh. Nếu thiếu kinh nghiệm hoặc có kinh nghiệm mà kém linh cảm thì cũng khó lòng đoán biết lẽ cùng thông.

Tỷ dụ có người trông bề ngoài đường đường tướng mạo mà đường thế đồ gót rỗ kỳ khu, vận mạng nổi chìm ưu uất bất đắc chí. Tất nhiên người ấy phải có một bộ vị tướng sinh hoại, sách tướng gọi là “Thanh trung hữu trọc” (Trong cái thanh quý có cái ô trọc). Ngược lại có những người trông bề ngoài “hình dong sủ lậu” mà cuộc sống “nhất phàm phong thuận” (con buồm thuận gió). Tất nhiên nguời ấy phải có một dị tướng.

Cho nên khi xem tướng trước hết phải phân biệt rõ ràng thanh trọc để làm căn bản cho sự phán đoán quý tiện hiền ngu.

Xem tướng đàn bà con gái vấn đề thanh quý và ô trọc lại càng quan trọng lắm! Rồi xem đến diện hình mắt, mũi, miệng. Ba thứ đó cần biết đoan chính hay khuyết hãm để dịnh cách quý tiện vượng phu hại phu. Tuy nhiên phải hết sức lưu ý để tìm biết người đàn bà con gái nào có mang một dị tướng đặc biệt nào không? Có điều lạ là đàn bà sinh quý tử, cực vượng phu hưng gia thường mang dị tướng, tỷ dụ: nhũ đầu như chu sa, lỗ rốn đỏ hồng, hay sâu rộng hình tròn hoặc nốt ruồi son ở chỗ kín (khoảng từ bụng xuống tới gần đầu gối). Một khi đã mang dị tướng thì người đàn bà bất kể diện mạo đoan trang hay thô lậu đều có thể “Vượng phu ích tử!

Tướng đẹp bề ngoài của phụ nữ thì sách tướng ghi như sau:

 

 

Nga mi (mày ngài),
Phượng nhãn (mắt phượng),
Huyền đởm tị (mũi như trái mật treo),
Anh đào khẩu (miệng như trái anh đào hồng nhỏ),
Chu sa trưởng (bàn tay hồng hào mịn màng).

 

Những ai có tướng kể trên đều được liệt vào hàng phu nhân tướng. Ngoài ra, dị tướng còn phải kể đến tướng thanh âm vì thanh âm rất quan hệ đến sự phân định quý tiện. Phàm nữ tử thanh âm xuất tự đan điền hữu lực, thanh âm như phượng kêu oanh rót nghe êm tai, dịu hiền trong sạch, âm điệu trầm bổng đều được hưởng hạnh phúc gia đình. Nhược bằng thanh âm vẩn đục, thô lỗ rầu rĩ tất là tiện tướng “phá gia ly tổ, phu tử bạc duyên.” Đời Mạt Thanh bên Trung Quốc, mẹ một danh thần cực phẩm là Lý Hồng Chương tướng mạo rất sũ lậu nhưng bà có một tiếng nói tuyệt hay, ai nghe bà nói cũng cảm mến! Nhờ tiếng nói đó mà người ta quên hết các nét xấu của diện mạo. Sách tướng gọi là “Nhất quý yểm tam sũ” (một cái quý chôn vùi ba cái tiện). Hồi bà còn là con gái, tiếng bà xấu bay ra ngoài chẳng ai dám hỏi. Về sau bố của Lý Hồng Chương đi qua quê bà và ghé lại tá túc ở nhà tổ phụ của bà. Lúc gặp, họ Lý thấy bà sũ lậu chẳng hề để ý. Vài ngày sau, cứ mỗi sáng họ Lý thấy bà ra sân cho gà vịt ăn thì con nào con nấy mỗi khi bà cất tiéng gọi là chạy tới quấn quýt nom thật vui mắt, cứ mỗi tối tiếng bà gọi vang lên là con nào con nấy ngoan ngoãn vào chuồng. Họ Lý vốn rành tướng thuật biết người con gái này là một loại sử nữ quý cách nên kết duyên với bà. Một trường hợp khác là bà mẹ của Đới Hồng Từ, vị thượng thư danh tiếng văn vũ toàn tài cảu Trung Quốc. Không chỉ riêng ông mà cả ba anh em đều rất hiển đạt. Theo truyền thuyết thì anh em họ Đới nhờ được ảnh tướng số, chỉ vì mệnh lận đận nên ông từ bỏ ý định làm quan đi buôn, ngoài ba mươi tuổi chưa lập gia đình, ông tin rằng vận mệnh chưa tới cưỡng làm chi.

Một hôm, có một nữ tử đến mua hàng tuy tướng mạo chẳng đặc sắc lắm nhưng cô ta mũi cao, sống mũi vươn thẳng tới ấn đường, “ngũ quan đoan chính, nhãn thần trừng triệt,” lúc nói thanh âm trong êm, tiếng nói thoát ra tự đan điền. Đới Công đang mải ngắm nghía tướng mạo cô gái thì con hầu sấp ngửa vào tìm. Đới Công quyết nhiên cô ta là con nhà gia thế. Đới Công bấy giờ mới biết cô ta còn dị tướng khác nữa mới cho tiền nữ tì hỏi dò, nữ tì cho hay cô ta trông xấu xí nhưng rốn cô tròn to, sâu, đầu vú đỏ như tô son. Theo sách tướng những dấu vết ấy là quý cách không những đa phúc lại sinh quý tử. Đới Công bèn nhờ người đến hỏi, bên gái tuy nhà danh gia quý tộc nhưng thấy con gái mình xấu xí vả chăng đã quá lứa nên cũng dễ bằng lòng.

Kể từ ngày Đới Công kết hôn với người con gái xấu xí đó thì công việc buôn bán tiến triển không ngừng, phụ sướng phụ tuỳ gia đạo êm ấm. Đới Công sinh ba người con trai là Đới Hồng Từ, Đới Hồng Hiến và Đới Hồng Tuệ, cả ba cùng làm đến bậc nhất phẩm!

 

Sách tướng viết:

“Nữ tử chu sa nhũ tất định sinh quý tử!”

 

Thật nghiệm vậy!

Trong sách Liễu trang tướng pháp, thiên Vĩnh lạc bách vấn có ghi một dị tướng khác có thể sinh quý tử là tướng mồ hôi như sau:

Vua hỏi:

 

“Tuyển cung phi cho mặc áo gấm dầy rồi cho đi bộ đến mướt mồ hôi để làm gì?”

Đáp:

 

“Nếu không làm sao biết được hương của thân thể. Phàm con gái mồ hôi ướt đằm mà thân thể vẫn thơm tho tất đại cát, trái lại là hạ tiện. Văn chương nói sắc nước hương trời là đã đi vào khoa tướng mà không biết đó thôi.”

Vua hỏi:

 

“Trong cung có nhiều cung nữ không đẻ con là tại sao?”

Đáp:

 

“Cổ nhân có câu: Mỹ nữ vô kiên (gái đẹp không vai), tướng quân vô hạng (võ tướng không cổ). Vai suôi quá mà thân hình lại yếu ớt, eo nhỏ quá mà thân hình nhẹ bẫng. Phạm bốn điều ấy khó lòng hưởng phúc nói gì đến con cái.”

 

V – NAM NHỜ TINH THẦN PHÚ QUÝ, NỮ NHỜ HUYẾT KHÍ VINH HOA

 

Đó là căn bản tướng lý phân biệt nam nữ. Con trai thì Tinh sinh Thần, con gái thì Huyết nuôi Mạng. Con trai mà Tinh khô tất chết. Con gái Huyết khô mạng vong. Tinh làm chủ xem tướng ở đâu? Trên trời mặt trăng, mặt trời là tinh hoa, dưới đất con người có hai mắt là tinh thần. Thần là mầm của Tinh. Tinh khoẻ nên Thần sáng. Thần sáng thì mắt thanh tú. Cho nên trai cần đôi mắt có “hắc quang sạ nhân” (như bắn vào người). Sách viết:

 

“Nhãn như điểm tất chung thân gia nghiệp vinh hoa.

Thần túc khí túc bạch thủ sáng thành gia nghiệp.”

 

Dịch nghĩa:

 

Mắt đen nhu điểm sơn, suốt đời vinh hoa

Thần vượng khí vượng tay trắng dựng cơ đồ

 

Bởi thế con trai mới lấy tinh thần làm chủ.

 

Con gái lấy huyết làm chủ thì chứng nghiệm ở đâu? Huyết ở trong da, sắc ở ngoài da. Trong da nếu huyết đủ thì ngoài da sáng đẹp. Huyết nội, sắc ngoại là một là rễ, một là cây non. Có rễ, có cây, rễ tốt tất cây tốt. Có huyết mới có sắc. Huyết bầng lên để thành khí tạo sắc. Cho nên phải đủ khí huyết mới hay. Nhược bằng huyết tốt mà sắc không nhuận là có rễ mà không cây hoặc sắc sáng đẹp mà trong vô huyết gọi là “Hữu niên vô căn chủ” là Dâm tướng! Nếu huyết nhuận mà bất hoa (nghĩa là không có những lốm đốm hồng hồng mờ mờ) thì yểu. Sắc sạm, môi khô là yểu hoặc khó sinh sản. Tóc là chất dư của huyết, nếu tóc thưa, mỏng, vàng, ngắn thì không tốt. Tóc xanh chủ quý, tóc dài chủ hiền! Tóc xoăn trôn ốc, vàng ngắn, khô cứng là tiện tướng hại chồng hại con. Con trai mắt sáng con gái tóc dầy đều tốt. Ca dao ta có câu: “Đàn bà tóc tốt thì sang” là vậy. Sách tướng viết:

 

“Bì bạch vô quang sắc bất hoa

Quyền cao ngách tước mục viên tà

Chuỷ tiêm điến kiêu kiêm hung lộ

Tam thập niên lai giá thất gia.”

 

Dịch nghĩa:

 

Da trắng không có quang ánh, huyết bất hoa

Quyền cao, trán bạt, mắt tròn hay tà thị

Miệng dẩu, đít cong, ngực ưỡn

Ba mươi tuổi lấy mười chồng.

 

 

Sách tướng viết:

 

“Bối hãm thành khang phụ bất nghi

Hung đuờng cao khởi hiếu vi nghi

Tinh hoàng diện xích thần hân lộ

Bất hiếu bất hiền phá bại thê.”

 

Dịch nghĩa:

 

Lưng có đường rãnh theo xương sống rất kỵ

Ngực nhô cao thích làm việc bậy bạ

Tròng mắt vàng, mặt đỏ, môi cuốn lộ sỉ

Là loại bất hiếu, bất hiền, là loại vợ phá bại.

 

 

Sách tướng viết:

 

“Phụ nữ tinh trường bất lộ quang

Bì hương nhục nhuận hảo hiền lương

Sắc huỳnh hoà trạc bích tản diện

Sinh tử tu đương bái thánh vương.”

 

Dịch nghĩa:

 

Đàn bà mắt dài không lộ quang

Da thơm, thịt nhuận là hiền lương

Sắc trạch hoà dịu hơi ẩn xanh như lòng trắng trứng luộc

Đẻ con tất làm nên sự nghiệp (sinh quý tử).

 

Sách tướng viết:

 

“Trạch phụ hà tu trạch mỹ dung

Kiên viên bối hậu thọ như tùng

Tị long phượng mục mi câu ngách

Dưỡng tử tu đuong bái thánh quân.”

 

 

Dịch nghĩa:

 

Chọn vợ cần gì chọn mắt đẹp

Vai tròn, lưng dầy tất không non yểu

Mui rồng, mắt phượng, lông mày như lưỡi câu

Nuôi con cao quý gần thánh vương.

 

Sách tướng viết:

 

“Trợ phu tế hưng gia chỉ vị thanh hoà khí túc.

Phụ nhân nữ khí thô nãi hạ tiện chi bối.”

 

Dịch nghĩa:

 

Giúp chồng dựng nghiệp chỉ vì tiếng nói hoà thần khí đủ.

Đàn bà khí thô (hơi thở, tiếng nói) là loại hạ tiện.

 

 

VII – MẮT MỊ VÀ MẮT TÚ.

 

Theo tục nhãn mị hay tú đều đẹp. Theo tướng nhãn đẹp mị đẹp tú khác hẳn nhau. Qua phân biệt của tướng thuật thì mị là chiều chuộng, vuốt ve, nũng nịu, lẳng lơ; tú là đoan trang, trong sáng, hiền hoà, dịu dàng. Đàn ông con trai đôi mắt phải thần quang cường phát.

 

Đàn bà con gái đôi mắt phải hoà huệ, thuần tĩnh. Đôi mắt ví như một khúc nhạc hay, người thưởng thưc không biết chán. Người đàn bà nào nhãn lộ hung quang khiến cho người đối diện hãi sợ thì nhất sinh ra tai hoạ, suốt đời cô độc, khắc sát. Người nào nhãn quang lưu đãng, ướt át, đong đưa, làm kẻ đối diện nảy sinh thị tâm thì dễ truỵ lạc, phong trần khó thoát.

 

Người nào nhãn quang đục, thô, quái đản khiến cho kẻ đối diện chán ghét thì suốt đời bần tiện, lao đao.

 

Người nào nhãn quang nhu nhược, như nhát sợ khiến cho người đối diện vừa thương hại vừa yêu chuộng thì chẳng tránh khỏi bị đàn ông dụ dỗ hoặc rồi phụ bạc.

 

Chỉ có đôi mắt hiền hoà trinh thục nên mới gọi là mắt đẹp theo tướng nhãn. Vì hoà thục nên mới hậu trọng, vì hậu trọng nên mới uy nghi. Nhờ uy nghi nên người mới biết kính trọng, vị nể.

 

Hoà thục, hậu trọng, uy nghi cộng lại với nhau gọi là tú.

 

 

MƯỜI BƯỚC XEM TƯỚNG

 

Coi tướng đàn ông hay đàn bà đều phải có trình tự. Trình tự đó, sách “Thần tướng toàn biên” gọi là Thập quan (mười bước xem) và biết như sau: (Chú ý: Mục này nói thiên về nam tướng nhiều hơn)

 

1 – Coi vẻ uy nghi như hổ hạ sơn – bách thú sợ hãi, như chim ưng bay trên trời – cáo thỏ đều kinh. Không dữ tợn mà có uy. Uy nghi là nhờ đôi mắt, lưỡng quyền và thần khí.

 

2 – Coi dáng đôn trọng và tinh thần, thân như chiếc thuyền chở vạn hộc thóc, cưỡi sóng to tuy bập bềnh mà không lay chuyển. Lúc ngồi, lúc nằm, lức đứng, lúc đi, thần khí linh hoạt, thanh khiết. Ngồi lâu không mê muội, càng ngồi lâu tinh thần càng sảng khoái như mặt trời mọc ở phương Đông ánh sáng chan hoà vào mắt người, như vầng trăng thu vằng vặc. Diệu thần, nhãn thần như mặt trời mặt trăng sáng lạn, tự nhiên khả ái. Nhìn lâu không mờ. Có những tướng trên không đại quý cũng tiểu quý, chẳng giàu tỷ phú thì cũng bậc triệu phú!

 

3 – Coi đầu tròn, đỉnh dầu trán cao vì đầu là chủ toàn thân, nguồn gốc của tứ chi. Đầu vuông, đỉnh đầu cao là người ở ngôi vị cao tới bậc vua chúa. Trán vuông, đỉnh đầu cao khởi là phụ tá lương thần. Đầu tròn thì giàu có và thọ. Trán rộng thì sang quý. Đầu lệch từ nhỏ truân chuyên. Trán vát thiếu niên hư hao. Trán thấp thì hình khắc và bướng bỉnh.

 

4 – Thẩm định sự thanh trọc – Thanh hay trọc phải đúng mức, vì Thanh đi quá đà sẽ trở thành hàn. Trọc đi quá đà sẽ trở thành thô và chỉ khi nào có hàn và thô mới coi là xấu. Nếu trong một cá nhân có cả Thanh lẫn Trọc, ta phải tìm xem đó là cách Thanh trung hữu Trọc hay cách Trọc trung hữu Thanh.

 

5 – Coi Ngũ Nhạc Tam Đình.

 

  1. a) NGŨ NHẠC:

 

Quyền bên trái là Đông nhạc cần ngay ngắn không thô lộ. Trán là Nam nhạc cần ngay ngắn, không vát, không hãm, không thấp, không thiên tà. Quyền bên phải là Tây nhạc nên đầy đặn, vuông vấn hay tròn trịa, không nên nhọn, lệch, lẹm. Mũi là Trung nhạc nên ngay ngắn, sống mũi trực thượng ấn đường không được vẹo, nhọn, gầy, khúc.

 

Sách tướng viết:

 

“Ngũ nhạc câu triều quý áp triều ban”

(5 nhạc chầu vàp nhau, chức vị đến bậc tể tướng)

 

Chú ý: Lấy mũi làm chuẩn cho sự chầu.

 

“Ngũ nhạc thành toàn thì tiền tài tự vượng”

 

  1. b) TAM ĐÌNH:

 

Gồm có trán, đầu và cằm (xem ở trên) đòi hỏi dài ngắn cân xứng.

 

Sách tướng viết:

 

“Thượng đình trường thiếu niên mang” (tuổi trẻ vất vả)

“Trung đình trường phúc lộc sương” (có phúc lộc)

“Hạ đình trường lão cát tướng” (tuổi già hưởng thụ)

 

 

Nếu tam đình không bình đẳng thì cứ căn cứ ba câu phú đoán trên mà xét.

 

6 – Coi Ngũ Quan, Lục Phủ:

 

  1. a) NGŨ QUAN:

 

+ Mi (lông mày) là Bảo thọ quan nên thanh cao sơ tú, cong dài, cách mắt hai phân là tốt. Đuôi mày nên chếch lên phía thái dương gọi là “mi phất thiên sương” (coi ảnh Chu Ân Lai thấy rõ). Người nào có bộ lông mày thô đậm, vàng lợt tán lọan, áp xuống mắt thì thuộc tướng hình hại.

 

+ Mắt là Giám sát quan nên đen trắng rõ ràng (phượng nhãn, tương nhãn, long hổ nhãn, hầu nhãn…)  Mắt nên có tinh thần ẩn bên trong chớ lộ ra ngoài, trông thấy vẻ tự nhiên thanh tú hoặc tự nhiên có uy lực. Nếu là mắt rắn, mắt ong, mắt heo thường lộ 4 phía lòng trắng (tứ bạch), hoặc có xích mạch (sợi đỏ) đâm ngang con ngươi, trắng đen lẫn lộn, hoặc thần quang quá lộ, hoặc hôn muội là tướng hung, bại ngu tướng.

 

+ Tai là Thám thính quan không cứ to nhỏ, chỉ cần luân quách (vành tai ngoài và vành tai trong) phân minh. Tai trắng hơn mặt cực tốt! Thuỷ nhĩ (tai mọng như nước); Thổ nhĩ (tai lớn và dầy); Viên kỳ nhĩ (tai tròn như quân cờ); Điếm não nhĩ (tai áp sát vào đầu, đối diện không thấy); tai cao hơn lông mày, sắc tai hồng nhuận, lỗ tai nhỏ đầu là loại tai tốt tướng. Loại tai chuột mỏng vểnh; tai đuôi tên (nhọn vát); mộc nhĩ (lăn quăn); luân quách phản – đều là tướng xấu!

 

+ Mũi là Thẩm biện quan nên đầy nở, thẳng cao. Những loại mũi tốt là: Long hổ tị, tài đồng tị (như ống trúc chẻ), thịnh nang tị (mũi như túi đầy); huyền đởm tị (mũi như trái mật treo). Mũi phải đoan chính không vẹo, không thô, không nhỏ mới hay. Những loại mũi xấu là: mũi chó, mũi chim ưng, mũi nhọn như mũi dao, mũi chia khúc, lỗ mũi lộ, mũi hếch, mũi có sống mũi cao lộ cốt gọi là “cô phong tị.”  Ai có những mũi xấu kể trên đều là bần, khổ, ác, tham, làm cái gì cũng hỏng.

 

+ Miệng là Xuất nạp quan. Miệng tốt tướng là miệng có đôi môi hồng, răng trắng, nhân trung sâu dài, hình dáng như trăng treo hay là vòng cung. Miệng chữ tứ, miệng vuông to như miệng hùm, miệng hình dáng tựa con thuyền bị lật úp, miệng cá ngão, môi ngắn răng lộ, môi đen, môi mỏng miệng thô đều là tướng xấu. Miệng xấu tất bị mười năm khốn khổ!

 

  1. b) LỤC PHỦ:

 

Lục phủ là gì? Lục phủ là những bộ vị chia ra chi tiết trên trán, lưỡng quyền và cằm. Cụ thể thế nào xin mời đọc sách khác, đoạn này bị thiếu, mong các bác thông cảm!

 

7 – Coi lưng, bụng.

 

Ngực bằng, đầy, eo tròn, lưng đầy và bụng dưới to hơn, da dẻ mịn màng là tốt. Kỵ lưng thành hố sâu, lưng mỏng, vai so, eo nhỏ (trai thì phải có vai, gái nên vai xuôi, vai nhỏ). Mông cần nở nang, bằng bặn, không nên lớn thô. Bụng nên trễ xuống nghĩa là bụng dưới to. Nếu khoảng trên lớn, khoảng dưới thót là bụng chim sẻ, bụng chó rất xấu.

 

Sách tướng viết:

 

“Yêu viên bối hậu phương bảo ngọc đới triều y”

(Eo tròn, lưng dầy thì ăn lộc của triều đình)

 

“Sậu nhiên bất dị khảng khái quá nhân tất chủ phát đạt phú quý”

(Tính tình khẳng khái, cương nghị hơn người tất sẽ phát đạt phú quý)

 

Riêng về tướng đàn ông, nên để ý câu sau đây:

 

“Đầu đại vô dốc, phúc đại vô nang bất thị nông phu, tất thị đổ bác”

(Đầu to mà không có góc cạnh, bụng lớn mà không có ụ nổi, nếu không chân lấm tay bùn thì cũng rạc dài cờ bạc)

 

Sách tướng viết:

 

“Nam tử eo nhỏ khó lòng có tiền, thêm yểu triết, ngực ưỡn đít cong thì chịu trăm ngàn cay đắng. Nữ tử thì phải chịu phận nô tì.”

 

8 – Coi chân tay.

 

Tay phải dài, chân phải có bụng chân chứ đừng có sác như que củi, chớ có nổi gân chằng chịt. Bàn tay nên nhiều đường nét lạ, màu sắc hồng nhuận, da thịt mềm mại.

 

9 – Coi tiếng nói và tâm trạng.

 

Sách tướng viết:

 

“Tâm bất chính tất nhãn gian tà.”

 

Muốn nhìn sự việc trong tâm thì coi đôi mắt. Mắt hiền mắt ác biết tâm hiền tâm ác. Mắt nhìn lên thì tâm sự cao thượng, mắt trông xuống thì tâm sự băn khoăn. Mắt chuyển động mà không nói là trong lòng nghi ngờ, lo lắng. Mắt tà thị là loại người “khẩu phật tâm xà,” ích kỷ hại nhân. Mắt nhìn thẳng thắn là người trung chính. Mắt ác tâm tất ác, mắt hiền tâm tất từ. Ai dư dả tiền bạc, lòng quảng đại vui sướng đều thấy hiện sắc chôn vàng đỏ ở nơi ngoạ tàm (dưới mắt) và ấn đường. Đàn ông tiếng nói như sấm sét, như chiêng đồng, như tiếng vang trong chum, tiếng dài có âm hưởng thì dù tướng mạo không đẹp lắm cũng có thể phú quý. Người nhỏ tiếng lớn, người lớn tiếng oai vệ, thanh âm xuất tự đan điền đều được hưởng phúc lộc lâu dài. Kẻ bần tiện yểu chiết tiếng nói líu ríu, nhẹ bấc, hoặc tán mạn (không tiếp nối đều đặn) hoặc như thanh la vỡ, trống thủng, tiếng khô khan khó nghe.

 

Sách tướng viết:

 

“Phú quý chi thanh xuất ư đan điền

Yểu tiện chi nhân, thanh xuất thiệt đoan.”

 

(Tiếng nói phú quý xuất từ đan điền – bộ phận dưới bụng trên thận

Người yểu tiện tiếng nói xuất từ đầu lưỡi)

 

Sách tướng viết:

 

“Ngôn vị cử nhi sắc tiên biến

Thoại vị tận nhi khí tiên tuyệt

Câu yểu tiện chi nhân”

 

(Chưa nói mà sắc mặt đã biến đổi, nói chưa hết câu mà như hụt hơi, đều thuộc loại yểu tiện)

 

10 – Coi hình cục, ngũ hành.

 

Hình cục là nét chính của nhân thân khả dĩ khái quát thành long hình, hổ hình, hạc hình, ngưu hình hay nôm na là tướng báo, tướng voi, tướng phượng, tướng khỉ đều thuộc loại tướng quý. Như trư hình, cẩu hình, mã hình, thử hình, hồ ly hình đều thuộc loại hung bạo bần bạc tướng.

 

Ngũ hành là Kim Mộc Thuỷ Hoả Thổ. (tướng qua ngũ hành rất cao diệu không thuộc phạm vi cuốn sách này!)

 

 

TÁM KỴ TƯỚNG CỦA PHỤ NỮ; TÁM QUYẾT TỰ CHO ĐÀN BÀ.

 

Hình tướng đàn bà chia ra:

 

– bát bại tướng,

– cửu sũ tướng

– và thập tiện tướng.

 

Dưới đây nói về bát bại tướng (tám điểm kỵ tướng) của đàn bà:

 

1 – Kỵ hùng thanh, đàn bà nói tiếng đàn ông nhất sinh cô khổ.

 

2 – Kỵ sinh tu, đàn bà có ria mép (không phải là râu ria rậm rạp hẳn kiểu đàn ông nhé! mà là lông tơ mọc rấm đen) cực đa dâm làm chồng không chịu nổi phải gục tại chỗ hoặc chạy mất dép!

 

3 – Kỵ sà hành, đàn bà đi trườn mình như con rắn thì trọng nhục dục, thích hư danh, không bao giờ là người chung thuỷ, trung thành!

 

4 – Kỵ tước dược, đàn bà đi như chim sẻ nhảy, dáng đi khinh phù không cẩn trọng là người hay cuồng vọng, dễ bị cô độc, bi thương.

 

5 – Kỵ đào hoa diện, mặt đẹp ưa nhìn thèm muốn tươi tắn một cách mời chào, thì tính tình sàm mị thì hay bỏ chồng thay chồng.

 

6 – Kỵ yêu tước điến, cao lưng, đít ong, lưng nhô thì luân lạc cao khổ, dễ bị cưỡng hiếp hoặc dụ hoặc. Có số làm nô tì.

 

7 – Kỵ lộ sỉ, đàn bà lộ sỉ, răng nhọn xám ngoét thì sinh sản khó khăn hoặc khắc tử.

 

8 – Kỵ quyền cao đâm ngang, đàn bà có tướng quyền này thường hung ác, dã man, khắc phu bại gia.

 

 

 

SAU ĐÂY LÀ TÁM QUYẾT TỰ:

 

1 – Nhất kiến khả kính, quý thọ nhi đa nam – “Mới trông đã kính tất sang và thọ, nhiều con trai.”

 

2 – Nhất kiến khả trọng, trinh khiết nhi phúc trạch – “Mới nhìn đã trọng thì nhiều phúc và trinh khiết.”

 

3 – Nhất kiến khả khinh, bần bạc nhi tiện yểu – “Vừa nhìn đã thấy khinh thì tất nghèo hèn.”

 

4 – Nhất kiến khả hỉ, tà đảng nhi dị dụ – “Vừa nhìn đã thấy thích thì dâm đãng dễ dụ hoặc.”

 

5 – Nhất kiến khả uý, cương cường nhi khi tâm – “Vừa nhìn đã sợ thì người ngang ngược ưa dối trá, nịnh bợ.” – Tướng này gồm có: “thanh sát diện hoành” (tiếng lát sát, quyền đâm ngang). Trán rộng quyền cao, chương tướng bộ sà tinh đặc biệt thường có phong thái đàn ông.

 

6 – Nhất kiến khả khủng, hình khắc nhi tâm ác – “Vừa nom đã thấy ớn, tất hình khắc và thường có ác tâm.”

 

7 – Nhất kiến khả ố, sũ lậu nhi sú ngạnh – “Vừa thấy đã cảm thấy ghét thì người xấu và hôi hám.”

 

8 – Nhất kiến khả hãi, loa văn cổ dốc – “Vừa thấy đã tởm… những tướng ghê tởm ở chỗ kín không tiện nói, xin mời tự tưởng tượng!”

 

 

MỘT NÉT CỰC QUÝ CỦA ĐÀN BÀ: “BẤT ĐỚI LAN CHI NHI TỰ HƯƠNG.”

 

Sách tướng viết: “Bất đới lan chi nhi tự hương” nghĩa là không giắt hoa lan hoa hồng mà thân thể tự thơm tho.

 

Hôi hám thân thể hoặc hôi hám riêng bất cứ bộ vị nào đều là tiện tướng như tóc hôi, miệng hôi, nách hôi, âm sú. Trong tướng lục ác thì âm sú là nặng nhất! Ca dao ta có câu:

 

“Thối tai hôi nách dình dình

Chẳng ai hỏi đến cậy mình chính chuyên.”

 

để chỉ một loại tiện tướng.

 

Đời vua Càn Long nhà Thanh ở vùng Tân Cương có một bộ tộc Hồi giáo do thủ lãnh Hoắc Tập Chiêm cai quản, vợ Hoắc Tập Chiêm là Hương Phi. Thân thể nàng ra sao không ai biết nhưng ai cũng biết tiếng rằng toàn bộ thân thể nàng tiết ra thứ hương thơm dị kỳ cao quý và ngây ngất, nhan sắc nàng lại mỹ lệ vô song. Vua Càn Long say mê người kỳ nữ liền sai đại tướng là Điêu Huệ phó tướng là Lưu Bái xuất lĩnh đại quân tấn công bộ tộc đó. Vua Càn Long ra lệnh tránh mọi sát hại cướp phá và điều quan trọng nhất là phải bắt sống Hương Phi. Quân Thanh tiến tới biên thành, Hoắc Tập Chiêm kháng cự bị bộ hạ làm phản bắn chết. Điêu Huệ bắt được Hương Phi về dâng Càn Long. Hương Phi chưa biết chồng đã bị giết nên vẫn mong đợi để gặp mặt chồng. Càn Long sủng ái như hạt ngọc quý, hy vọng một ngày khia nàng sẽ nguôi và ông vui lòng chờ cơ hội. Hương Phi muốn gì lập tức chiều ngay. Nhưng đã sáu tháng trường Càn Long vẫn tuyệt nhiên không làm thế nào để gần gũi Hương Phi dù chỉ là chuyện nắm đôi tay.

 

Say mê vẻ đẹp quyến rũ, Càn Long thường lừa lúc Hương Phi không để ý ông đứng ngẩn ngơ ngắm nhìn nàng không biết chán. Một bữa, Hương Phi vừa tắm xong, hương thơm kỳ lạ từ người nàng bốc ra ôi tuyệt diệu khiến cho ông vua đa tình cầm lòng chẳng được sông vào ngoạ thất của nàng và bị Hương Phi cự tuyệt tàn nhẫn. Càn Long đành lủi thủi đi ra và nói cho nàng biết rằng đừng chờ Hoắc Tập Chiêm nữa, hắn đã bị bắn chết rồi. Hương phi từ khi biết tin chồng chết khóc lóc ngày đêm, Càn Long thấy nàng ủ rũ tìm cách chiều chuộng, rút cục vẫn chẳng lay chuyển được nàng. Chuyện đến tai Hoàng Thái Hậu, bà cho người ám hại giết Hương Phi. Càn Long nghe tin than tiếc mãi.

 

Người mang tướng “bất đới lan chi nhi tự hương” bao giờ cũng là người cao quý, tao nhã, kiên trinh, đoan trang, đoan chính.

 

Trong Cung oán ngâm khúc, Ôn Như Hầu viết:

 

“Hoa xuân nọ còn phong môn nhị

Nguyệt thu kia chưa hé hàm quang.

Hồng lâu còn khoá then sương.

Thân khuê còn rấm mùi hương khuynh thành.”

 

 

Thật đúng vậy, đẹp và thơm không thể tách rời nhau. Tục cũng như tướng trên điểm này hoàn toàn đồng ý. Từ ngàn xưa con người bằng đủ mọi cách đi tìm chút hương thơm nhân tạo nhưng cho đến bây giờ vẫn không chiến thắng – dù chỉ là mảy may – hương thơm trời cho nghĩa là hương thơm của tướng cách.

 

 

X – CHÍN XẤU MỘT TỐT CÒN HƠN CHÍN TỐT MỘT XẤU

 

Sách tướng viết:

 

“Nhất quý để cửu tiện

Nhất tiện phá cửu quý”

 

(Nhất quý xoá chín tiện

Nhất tiện phá chín quý)

 

Đó là định luật đặc biệt của tướng thuật và cũng là căn bản cho việc coi tướng, đoán tướng.

 

Tướng con người ta đại thể chia ra làm các loại hay gọi theo chữ là cách cục.

 

Cách cục bao giờ cũng luận theo lý tương đối chia ra như sau:

 

– Dầy mỏng (hậu bạc)

– Thiện ác. Thọ yểu.

– Quý tiện.

 

Tướng ác bên ngoài lấy dầy mỏng làm chủ. Tâm tướng thì lấy thiện ác làm chủ.

 

Một quý xoá chín tiện, một tiện phá chín quý ý nói tướng người ta trong nhiều tướng tiện mà có một tướng quý thì tướng quý khả dĩ xoá bỏ những tiện tướng kia đi. Ngược lại người ta trong nhiều tướng quý mà có một tướng tiện thì những tướng quý bị phá. Ta thường nghe nói phá tướng chính là nghĩa ấy.

 

Các nhà tướng học Trung Quốc rất hứng thú với việc đi khám phá những điều mới lạ của định luật này. Tại Bắc Kinh đế đô của nhiều triều đại nơi tụ tập của các quan quý nhân tứ xứ cùng các vị phu nhân. Trên tổng số rất ít người về tướng cách được thập toàn thập mỹ thì còn lại những tướng “nhất quý” thì rất nhiều. Tướng thập toàn thập mỹ thường dễ nhận mà tướng nhất quý hay nhất tiện rất khó xem. Quý nhân ai cũng có những đồ phụ tùng như kiệu, người hầu (thời nay thì mặc đồ “xịn,” đi xe đẹp, vàng ngọc đeo đầy người…)  Tiện nhân trái lại thật là giản dị mắt thường cũng nhìn thấy. Khó là ở nơi tìm ra cái hoạ sắp tới của kẻ tiền hô hậu ủng và cái phúc đang chờ của kẻ cơm ăn còn đang bữa đói bữa no!

 

Nghiên cứu về tiện tướng ở Bắc Kinh các nhà xem tướng thường đến kỹ viện Bát Đại hồ đồng. Ở đây người ta có thể nom tận mắt những người đẹp xứng đáng là “hoa quốc tổng thống.”  Ở đây người ta cũng thấy tận mắt những bộ mặt dâm ô, tiện nữ, thô tục. Mỹ nhân theo tục nhãn là đẹp, kỹ nữ theo tướng lý là hạ tiện. Ở đây trong đầu óc người ta nổi lên hàng trăm dấu hỏi tại sao có những phu nhân đẹp tuyệt vời cũng lại có những vị nhất phẩm phu nhân xấu ơi là xấu, xấu như con gấu? Tại sao cũng một vẻ đẹp “khờ người” lại luân lạc vào chốn thanh lâu khốn khổ này mà một con người hình thù quái dị kia lại võng điều lọng tía? Tất cả đều nằm trong định luật nhất quý nhất tiện của tướng pháp vậy.

 

Trịnh tiên sinh thông hiểu tướng lý thường cùng bạn bè đến Bát Đại Hồ Đồng. Theo Trịnh tiên sinh thì tướng đàn bà con gái thường hiển lộ, còn tướng đàn ông con trai thường ẩn tàng. Cho nên nét quý tiện của đàn bà dễ nhận thấy hơn. Tại Bát Đại Hồ Đồng, Trịnh tiên sinh đã phát hiện ra một ít tướng cách không tầm thường đáng tôn đến bậc quý phu nhân.

 

Đương thời có một danh kỹ tên là Thái Phượng quê ở Tô Châu cũng là nơi sản sinh ra nhiều mỹ nữ. Đã nổi tiếng tất phải diễm lệ. Diễm lệ mà làm kỹ nữ tức là một cảnh “hồng nhan bạc mệnh” rồi! Đợi lúc xuân tàn sắc kém mới lấy chồng là bạc mệnh. Được cao quan quý nhân kết duyên giữa lúc sắc nước hương trời, nhưng phải chịu làm phận thiếp, làm vợ bé thì cũng vẫn cứ là bạc mệnh. Kỹ nữ đa số vẫn bị cái nghiệp báo vô tử (không có con) – đó cũng vốn là một thứ bạc mệnh! Lấy chồng dù được làm kế thất nhưng tuổi chồng, tuổi vợ chênh lệch quá xa. Cái cảnh cây lê hoa trắng ôm ấp đoá hoa hải đường cũng chẳng phải là một cảnh bạc mệnh đó sao?

 

Riêng về trường hợp của Thái Phượng, Trinh tiên sinh vẫn còn nghi hoặc vì chưa tìm ra một bạc tướng nào. Lẽ ra Thái Phượng phải lấy chồng rồi mới đúng chứ? Tuy rằng không được làm vợ một quý nhân thì cũng là chính thất của một phú nhân mới phải. Hơn nữa, đào hoa vận đến đã từ hai năm nay rồi! Dò hỏi kỹ càng mới biết năm kia nàng 17 tuổi bị “phá thân” bởi một phú thương ở Thiên Tân (!) với giá mười ngàn nguyên. Theo tướng lý “phá thân” cũng ứng vào đào hoa vận, có khác chăng là không phải đi lấy chồng cũng không phải được làm vợ. Tuy nhiên, cũng theo tướng lý thì con gái xuất giá là sự việc tốt do phúc khí tạo nên; còn con gái phá thân bằng lối mua chuộc (hoặc một số lối khác) thì lại là sự việc xấu coi như một tai hoạ. “Sai một ly đi một dặm.”  Vậy cái sai một ly ấy ở chỗ nào nhỉ?

 

Trịnh tiên sinh rất phục tài xem tướng của Thái đẩu Điếu Kim Ngao nổi danh đương thời. Vừa lúc Điếu Kim Ngao du lịch miền nam đi về Bắc Kinh, họ Trịnh có ý muốn nhờ Thái đẩu giảng cho mình điểm nghi hoặc: Một hôm vào buổi trưa Trịnh tiên sinh biết tin Thái Phượng đi ăn cơm với mấy bà thương gia tại một tiệm lớn. Sở dĩ có bữa cơm này là vì trong số các bà có người có con trai đang muốn lấy Thái Phượng. Trinh tiên sinh liền cùng vài bạn đến Thái đẩu Điếu Kim Ngao mời đến chỗ đó ăn cơm, cốt để Thái đẩu đoán tướng của Thái Phượng. Thái đẩu Điếu Kim Ngao không hề biết Thái Phượng là kỹ nữ. Hôm nay Thái Phượng đi ăn với các bà nọ cũng trang điểm rất đơn sơ đạm bạc thật đúng phong cách lương gia nữ.

 

Họ Quách hỏi Thái đẩu:

 

– Tiên sinh đi vùng Giang Nam lần này với chủ ý: Dục cùng thiên lý mục cánh thượng nhất tầng lâu, nay thu góp chắc được nhiều điều mới lạ, xin tiên sinh cho biết người Bắc kẻ Nam trên phương diện tướng ra sao?

 

Điếu Kim Ngao đáp:

 

– Thưa vâng. Đi vạn dặm đọc vạn quyển sách. Chẳng những tôi tìm thấy nhiều điểm khác lạ về ngưòi Nam người Bắc mà còn học thêm những yếu tố địa lý nhân tố nhàn sư ảnh hưởng đến tướng thuật.

 

Quách tiên sinh tiện dịp bàn bên chợt huyên náo liền đưa mắt nhìn sang rồi chỉ tay hỏi:

 

– Tướng Nam, tướng Bắc như mấy bà bên đây có dễ dàng nhận ra ai là Nam, ai là Bắc không?

 

Điếu Kim Ngao gật đầu:

 

– Dễ lắm”

 

Thái đẩu cũng quay sang luôn hướng đó. Vừa lúc có một bà nhận ra Điếu Kim Ngao liền gật đầu chào rồi vội chạy sang nói:

 

– Tiên sinh có nhận ra tôi không? Tôi là vợ ông Hạ đây nè. Tháng trước tôi dẫn vợ chồng ông họ Trương đến xem tướng, tiên sinh bảo ông ta tháng ấy dịch mã động. Đúng quá, ông ấy vừa có việc đã đi xuống phương Nam mấy bữa nay rồi.

 

Điếu Kim Ngao đáp lời:

 

– À thì ra bà Hạ, ông nhà biến đâu cả năm nay tôi không gặp?

 

Bà họ Hạ ghé tai Điếu Kim Ngao nói nhỏ:

 

–  Gặp tiên sinh hôm nay thực là may, xin mời tiên sinh sang bên bàn tôi uống vài ly rượu nhân thể gia phúc xem hộ cho một cô nương bên ấy. Theo chúng tôi thì cô ta đẹp lắm, dáng người đầy đặn nhưng chẳng biết cô ấy ra sao, có thực là vượng phu ích tử hay không, năm nay có hỷ tình chăng? Hôn phối có mỹ mãn không?

 

Nghe bà họ Hạ nhỏ to, họ Trịnh cùng các bạn như hạn hán gặp mưa hối hả giục Thái đẩu nhận lời.

 

Bà Hạ giới thiệu Thái đẩu là Trương Tam Gia và giới thiệu Thái Phượng là Lý tiểu thư. Điếu Kim Ngao chừng vài mươi phút vừa uống rượu vừa đàm đạo với Lý tiểu thư rồi quay về bàn cũ ngồi không nói điều chi với các bà hết. Quách tiên sinh lên tiếng khiêu khích mà rằng:

 

– Cô nương bên ấy là thiếu phụ đâu còn là khuê nữ mà sao các bà ấy đặt vấn đề cầu thân một cách long trọng thế không biết!

 

(Thực tình, họ Quách muốn thử xem phản ứng của Thái đẩu như thế nào)

 

Thái đẩu Điếu Kim Ngao cười khà khà:

 

–  Chắc là Quách tiên sinh nhìn đã đoán được có kẻ phá thân cô ấy rồi thì phải?

 

Cả bọn cùng cười.

 

Trịnh tiên sinh nói:

 

–  Lúc tiên sinh đi Giang Nam bọn này như bầy trâu không có người chăn dắt, lắm lúc bí xị nhiều điểm không trông ra. Như trường hợp Thái Phượng – Lý tiểu thư đây chẳng hạn, chúng tôi chỉ mang máng nó thuộc diện nhất tiện phá cửu quý nhưng tiện tướng nào thì tìm hoài không có thấy! Chúng tôi đã thấy rằng đáng lẽ phải 2 năm trước cô ta đáng ra đã lấy chồng giàu, thế mà dọ hỏi thì lại không phải vậy.

 

Thái đẩu nói:

 

–  Đó là vì các vị không xét nó trên căn bản vấn đề vậy. Nếu hình thái ấy mà không phân tích qua định luật chân quý và giả quý thì dễ nhầm lẫn lắm. Đúng là cô ấy thuộc cách nhất tiện phá cửu quý, mà cách này cũng có thể tìm ra ở trong chân quý nữa nhưng mà rất hiếm. Ta không nên hồ đồ. Cách nhất tiện phá cửu quý thì sự khám phá ra minh tiện (tướng tiện lồ lộ) không khó khăn gì, nhưng khám phá ra ám tiện thì chả dễ dàng tẹo nào đâu. Chân quý hay giả quý thuộc chính cách, còn nhất quý thuộc kỳ cách và nhất tiện phá cửu quý thuộc phá cách. Hình tượng mỗi người hỗn tạp bất thuần. Như Lý tiểu thư đây là tướng cục giả quý đeo thêm phá cách.

 

Trịnh tiên sinh nói:

 

–  Đồng ý, về chân giả chúng tôi tự nhận đã không đặt ra để đặt hướng cho đúng. Nhưng xin hỏi tiên sinh tướng pháp có dậy cách phát hiện ra ám phá cách không?

 

Điếu Kim Ngao cười mím chi cọp:

 

–  Tướng ám phá trên đại thể có thể nhìn qua mũi, mắt, môi và âm thanh được. Tuy nhiên được như thế chẳng những phải đầy kinh nghiệm mà còn phải thêm nhất điểm thiên tài nữa mới xong. Phải có điểm thiên tài ấy mới tiến tới bậc nhìn thần khí mà nhận ra ám tướng.

 

Trịnh tiên sinh nói:

 

– Vọng khí đi ra ngoài khả năng của chúng tôi, chỉ xin tiên sinh chỉ giáo những điểm dễ dãi hơn, như Lý tiểu thư đây, nhìn qua mắt, mũi, môi và âm thanh có thể nhận ra ám tướng chăng?

 

Điếu Kim Ngao đáp:

 

–  Trước hết, tôi hãy nói với các vị về nguyên lý đã. Coi mũi chủ yếu phải tìm ra vết tích nhỏ như sợi tơ. Với đàn ông mũi là thê, với đàn bà mũi là phu. Vết ấy hiện lên là phu hoặc thê cung khuyết hãm. Coi mắt phải hiểu ánh mắt, khuyết điểm là đào hoa nhãn ám tàng dâm quang – đấy là 1 phá tướng. Coi môi chủ yếu là nhan sắc, qua sắc môi tìm ra âm sú (hôi hám của sinh thực khí) đó là ám phá cực hại. Coi thanh tướng phải nghe được âm sắc; tiếng nói biểu thị một sự khuyết hãm của khuê phòng chẳng những chứng tỏ là dâm phụ mà còn là loại vợi bị ruồng bỏ nữa. Cô Thái Phượng ám tướng hiện ở trên môi.

 

Nói đến đây thì bàn bên kia đã rã đám. Bà họ Hạ dẫn một bà sang bàn bên này nói với Thái đẩu Điếu Kim Ngao rằng:

 

–  Đây là bà bạn thân họ Cừu của tôi. Bà ấy có cậu con năm nay 30 tuổi, lấy vợ đã ba năm mà vẫn hiếm hoi, thầy số bảo rằng chính phòng tử tức bất vượng nên có ý muốn chọn thiếp cho cậu ấy. Vậy lấy Lý tiểu thư làm thiếp có được chăng?

 

Thái Đẩu đáp:

 

–  Người ta thường lấy thiếp để hưởng sắc, thì lấy kỹ nữ cũng không sao. Như bà đây muốn chóng có cháu thì hà tất phải cần Lý tiểu thư. Tôi muốn nói thẳng ra xin hai bà thứ lỗi, thế cậu nhà vẫn là khách hàng quen thuộc của Lý Thái Phượng ư? Hay là có ai giới thiệu với cậu ấy?

 

Hai bà đỏ mặt và đám họ Trịnh, họ Quách… cũng ngỡ ngàng.

 

Giây lâu bà họ Cừu nói:

 

–  Cháu hiện ở Thiên Tân và không quan Thái Phượng mà do bạn bè giới thiệu, họ cũng cho biết cô ấy là một kỹ nữ nổi tiếng nhưng tài sắc tướng mạo kể vào loại khá đáng là viên ngọc bích của một tiểu gia. Thêm nữa con dâu cả của tôi kể cũng hơi đứng tuổi, cho nên khi cháu nó thấy nơi Thái Phượng như thế thì vui lòng ưng ngay!

 

Điếu Kim Ngao nói:

 

–  Nếu cậu ấy đã quyết định rồi thì tôi nói thêm vào làm gì! Nếu tin tướng số đó là một vấn đề, bằng như không tin thì nói mấy cũng là thừa!

 

Bà họ Cừu vội nói luôn:

 

–  Thưa tiên sinh, cháu nó nhà tôi tin vào tướng số lắm ạ. Sở dĩ còn trù trừ đến nay chưa quyết cũng chính là vì tại nó muốn coi xem số mạng Lý tiểu thư cho rõ ràng đấy ạ.

 

Điếu Kim Ngao nói:

 

–  Theo tôi thì việc hôn sự không thành đâu. Thứ nhất tướng mạo Thái Phượng tuy rất đẹp nhưng cô ta không thể lấy chồng trước 25 tuổi, và cô ta nhất định phải lấy người hơn mình ít nhất là 24 tuổi. Thứ hai Thái Phượng tuy có tướng vượng phu nhưng về đường tử tức hoàn toàn hỏng bét! Cho nên, cái mục đích thứ thiếp sinh nhi tử của cậu nhà không thể thực hiện được. Thứ ba, Thái Phượng tuy nghi dung mỹ lệ nhưng có ám phá tướng, lấy chồng rồi cũng khó lòng làm vừa lòng chồng.

 

 

Chàng họ Cừu vẫn còn tiếc rẻ chưa tin hẳn lời Thái đẩu, nhờ bạn đi điều tra thêm nữa thì mới biết rằng ám phá tướng của Thái Phượng là âm sú rất nặng không một anh chàng nào có mũi mà chịu nổi!

 

Về sau, Thái phượng đúng lúc nàng 26 tuổi gặp và lấy một ông lái muối giàu có họ Vương. Ông ta năm ấy vừa tròn 50 cái xuân xanh! Vì khứu giác bị hỏng nên đối với ám phá tướng của Thái Phượng ông tuyệt đối chẳng hay biết, mà nếu có biết ông cũng chả thèm quan tâm. Mũi có ngửi thấy gì đâu mà sợ!

 

Kể từ đấy, Thái Phượng thoát hẳn khỏi cái kiếp lầu xanh. Thế mới hay, thứ thịt lợn thiu đã có ông thành hoàng nghẹ mũi, ông trời xếp lớp việc đời quả là tuyệt diệu.

 

Tướng tiện thật lạ kỳ. Người đàn bà có đẹp như sao băng nếu phạm phải cũng đành cam phận mà thôi.

 

“Mùi tục luỵ nhường kia cay đắng,

Vai chi mà đeo đẳng trần duyên.”

 

 

 

DẦY VÀ MỎNG ĐỐI VỚI NHẬN THÂN NGƯỜI PHỤ NỮ

 

Trước tiên, kính mời các bạn thưởng thức một bài thơ lục bát tuyệt hay:

 

 

Những người thắt đáy lưng ong

Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con

Nhưng người béo trục béo tròn

Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày.

 

 

Chẳng hiểu sao người xưa đặt ra câu phong dao trên đây theo ý nghĩa nào? Đúng hay là… sai bét nhỉ?

 

Xin thưa, mời đọc phần tiếp theo này nhé:

 

Khéo chiều chồng chỉ đúng theo nghĩa yêu đương tình dục mà thôi! Và khéo nuôi con chắc chắn hkông thể đúng theo cách nhìn của tướng thuật về nghĩa vượng phu ích tử được! Còn béo tròn thì lại cần phải xét cho kỹ; Nếu cái béo núng nính, thịt mỡ quá nhiều so với xương cốt thì đúng thật là thứ đàn bà ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày thật rồi! Chẳng những thế, tướng cách “nhục bất xứng cốt” chưa chắc đã có thể có con để mà đánh mắng.

 

Theo tướng thư đàn bà thắt đáy lưng ong thuộc loại mình mỏng không trọng hậu, là tướng cách phong trần đa truân mặc dù, đó cũng là tướng cách phong lưu. Về phụ nữ, tướng thuật lấy hậu trọng mình đầy đặn làm thượng cách cho phú cũng như quý. Người ta có thể kiểm chứng định luật này rất dễ dàng bằng cách trông tướng phu nhân của các vị nguyên thứ kể từ nữ hoàng Elizabeth, hoàng hậu Sirikit, Farah Dibah… không ai là không có cái cách “yêu viên bối hậu” (lưng dầy eo tròn) ngoại trừ Jacqueline Kenedy.

 

Đàn bà khác với đàn ông ở tướng dầy mỏng này. Đàn ông điển hình, mộc hình gầy cao thanh tú là quý! Nhưng đàn bà tướng thân như phong liễu không bao giờ là tốt cả. Đọc trong Hồng Lâu Mộng tác giả Tào Tuyết Cần tả các mỹ nhân nào là Tiết Bảo Cầm eo như con thuỷ xà, thân như trái đào non; nào là Sử Sương Vân lưng ong tay dài, trông đẹp tựa như con thiên nga; nào là Vương Hi Phượng với hai câu “Phấn diện hàm xuân uy bất lộ, đan thần vị khải tiếu tiên khai.” Hết thẩy đều có vẻ đẹp thân như phong liễu cho nên Hồng Lâu Mộng mới là cuốn tiểu thuyết diễm tình đầy nước mắt.

 

Nói đến tướng hậu trọng cần phải lưu ý những điểm căn bản sau đây:

 

Hậu trọng là dầy và nặng theo nghĩa đen. Tuy nhiên nếu người dầy và nặng thì bước đi phải nhẹ nhàng, sách tướng gọi là “Thân trọng bộ khinh” (mình nặng mà bước nhẹ) – thế mới quý. Trái lại mình dầy nặng mà đi như huỳnh huỵch như lăn cối đá, ầm ầm như xe tăng lên dốc là không đúng cách. Thêm nữa, những người mình nhẹ mà bước nặng là có tướng làm nô tỳ. (hoặc cái gì đó tệ tương đương như thế)

 

Tuy nhiên, hậu trọng không phải là béo múp béo míp, mỗi khi cử động hay cười nói là thịt lại rung lên, núng nính! Sách tướng dạy:

 

Nhục đa cốt thiểu” (thịt nhiều xương ít) là tướng tú bà, tướng không con. Xương với thịt phải cân xứng tuyệt đối.

 

Hậu trọng thì cần da dẻ mịn màng, không bóng lên như bôi dầu. Da bóng nhễ, mình dầy là dâm tiện chi tướng.

 

Hậu trọng còn cần “nhục tàng” (thịt ẩn) nghĩa là chắc gọn, không sồ sề, lôi thôi. Xồ xề là tướng tham ăn tục uống hết cả phần chồng phần con.

 

Hậu trọng nhưng cốt cách phải phong thái không được thô lỗ.

 

 

 

DUNG NGHI TƯƠI TẮN VÀ DUNG NGHI BUỒN BÃ.

 

Tướng thuật có đưa ra một định lý cơ bản là tướng tuỳ tâm biến (tướng do tâm mà biến đổi) tinh thần ảnh hưởng mạnh đến hình thái và sinh lý. Phàm con người ta lúc nào cũng uất giận, ưu sầu thành thói quen sẽ khiến cho bộ mặt hình dạng thành tướng bần khổ. Sách tướng viết:

 

“Ưu tư làm hại con tim, buồn bực làm cho khí tiêu tán. Bởi thế các đạo gia xưa thường dậy người ta lấy tinh thần hoan hỉ để nuôi dưỡng thần khí. Người vui tính bao giờ cũng không mau già và dễ gặp may mắn!”

 

Nguyễn Du trong truyện Kiều ngay từ đầu đã nói rõ cái lý do đoạn trường của nàng Kiều hiển hiện qua tâm lý lúc nào cũng buồn khổ. Nàng giỏi cung thương ca khúc nhưng luôn luôn bị ám ảnh bởi một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. Cho nên khi ngang qua mộ Đạm Tiên nàng đã linh cảm đây chính là cuộc đời nàng để mà ủ dột nét hoa, sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài, Kiều hầu như đã tiên đoán cho bản thân nàng:

 

 

“Rằng hồng nhan tự thuở xưa

Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.”

 

 

Kiều tuyệt đẹp nhưng đẹp với dung nghi buồn bã mà dung nghi buồn bã theo sách tướng không phải là một tướng tốt. Với tướng thuật dung nghi buồn bã chứa chất một cuộc đời không yên ổn ít gặp thuận cảnh mà lại gặp nhiều nghịch cảnh. Nó cũng chứa chất tính dâm của phụ nữ. Liễu Trang tướng pháp viết:

 

Người đàn bà mặt buồn buồn hay vươn lưng thở dài là đa dâm. Thời Nhật Bản xâm lăng Trung Quốc, tạo dựng nguỵ quyền Uông Tinh Vệ và lập một cơ sở mật vụ số 716 có vụ nàng Trịnh Tần Như ám sát Đinh Mặc Thuần mật vụ trưởng đã làm sôi nổi lòng yêu nước của thanh niên nam nữ Trung Quốc lúc đó.

 

Trịnh Tần Như là hoa khôi của một trường nữ học Thượng Hải, nàng đẹp mê hồn, dung nghi càng đẹp với những nét buồn thảm. Hàng ngày Trịnh Tần Như đạp xe đi học, với tuổi 16 ngây thơ, không ai ngờ nàng là một gián điệp quan trọng của Trùng Khánh (thuộc chánh phủ kháng chiến). Đinh Mặc Thuần say mê Trịnh Tần Như và nhờ vậy nàng đã mang về cho phe kháng chiến nhiều tin tức quý báu. Sau đó nàng đột nhiên được lệnh hạ sát Đinh Mặc Thuần theo kế hoạch đúng ngày đúng giờ nàng phải dụ Thuần đến một tiệm buôn lớn ở Thượng Hải, xuống xe nàng sẽ ra trước và nhoài người nằm xuống, nơi ấy đã có người đợi sẵn lia vào trong xe một loạt đạn tiểu liên. Kết quả Đinh Mặc Thuần không chết và Trịnh Tần Như bị gián điệp Nhật bắt đem xử tử. Lúc ra pháp trường, nàng chỉ đưa ra yêu cầu đừng bắt vào mặt nàng để dung nhan đẹp của nàng còn nguyên vẹn. Về sau, người ta tìm thấy cuốn nhật ký của nàng trong đó ghi về lời thầy tướng số đoán tướng nàng sẽ “bất đắc thiện chung” vì lẽ buồn rầu quá lộ trên mặt sắc đẹp của nàng.

 

Với văn chương, “Người em sầu mộng” đúng là một tuyệt tác của muôn đời, tuy nhiên tướng thuật lại nghĩ khác và không bao giờ hài lòng với nhan sắc diễm lệ lại đi đôi với tâm lý “táng hoa dạ khốc” trong tiểu thuyết “Tuyết hồng lệ sử.”

 

 

PHÂN TÍCH LẼ QUÝ TIỆN CỦA TƯỚNG ĐÀN BÀ

 

Con người sinh ra chịu ảnh hưởng tốt xấu của trời đất và chịu sự chi phối của Ngũ hành. Kinh dịch viết:

 

“Kiền đạo thành nam.

Khôn đạo thành nữ.”

 

 

Tướng nam tử khác với tướng nữ tử. Tướng đàn bà lấy nhu làm căn bản, tướng đàn ông lấy nhu làm hình thái. Thanh là quý, đục là tiện. Tuy nhiên nếu quá nhu lại là dâm, quá cương lại là hình khắc. Hành động kinh phù (bồng bột, lộ liễu) như cợt nhả, như chiều chuộng là dâm. Đàn bà con gái cặp mắt như thu thuỷ, sắc như hoa đào, mới hé môi đã làm người say đắm thì dù cho ẩn trong thâm khuê cũng khó lòng trinh tiết. Con gái nhãn quang bong ra chủ dâm. Sách tướng viết:

 

“Bán tiếu hâm tình dâm dị dụ

Nhãn quang lưu lộ định tham dâm.”

 

Tướng đàn bà con gái cần có ấn đường nổi ngay ngắn mới giúp chồng phát đạt hưng gia. Nhãn tú thần tàng thì sinh quý tử. Mũi trái mật treo vượng phu ích tử, thành danh và có tài quyền. Diện, quyền quá cao sẽ khắc tử, hình phu, tính tình hỗn láo. Mắt vàng tóc đỏ muộn chồng. Vai so lưng lượn ấu niên bần tiện. Vàng nhiều ngọc lắm chỉt bởi tai rộng mũi lớn. Áo gấm đeo vàng là do mặt đầy đặn vuông vắn. Mắt phượng, trán sáng, má đầy lấy chồng cực phẩm. Trán lệch, cằm nhọn, quyền cao phá ngang là nghèo mạt rệp.

 

Dương Quý Phi hiếu sắc chỉ vì nhãn lộ quang. Tạ Đạo Uẩn tài cao bởi tại huyết hoà minh nhuận. Nàng Lục Châu gieo mình tự vận do ư nhãn lệ uông uông và ấn đường khuyết hãm. Võ Tắc Thiên lên vị chánh cung hoàng hậu nhờ mặt tròn, môi đỏ. Vương Chiêu Quân chết ở Bắc Phiên vì chưng miệng nhỏ, trán ám, răng nhọn. Vợ Chu Mãi Thần không chịu được cảnh khổ vì lẽ miệng rộng, eo nhỏ, thân thô. Đàn bà oanh liệt thì mắt lớn, mi ngang. Xuất giá vượng phu ích tử mũi sang, môi hồng, ấn đường rộng. Nửa đời mà chưa chồng, sắc ám, tiếng khô, thần thô. Một đôi mắt đẹp thiên nhiên tính cách thông minh. Suốt đời phúc lộc nhưng đa dâm, da trắng như ngọc lưỡng nhãn phù quang. Chân mày cánh cung lấy chồng hiền. Ngón tay như măng trúc, da thịt sắc nhuận lấy chồng rất sang. Thanh như tấu nhạc du dương chung tu phú quý. Diện mạo đoan trang, ôn nhã giúp chồng làm nên. Làm vợ kẻ nghèo hèn chỉ vì huyết khí bất nhuận. Vợ người giàu có bụng dầy, rốn sâu. Môi mỏng, da khô đàn bà lắm mồm hay hớt. Đầu vú nhỏ, rốn lồi sinh con ngu ngoạn vô năng. Gia đạo hưng thịnh ấn đường sáng sủa, huyết sắc quang hoa. Khắc tử táng phu, mũi ám hám , ấn đường nhiều vết phá. Mắt lớn, quyền cao cướp quyền chồng. Trán rộng, tóc thấp (tóc con mọc cả trên trán) thì táng tử hình phu và phá tán tài sản. Xương thô, thịt rắn thì dâm tiện, chôn chồng. Nội trợ hiền năng bởi chưng môi hồng, nhãn tú. Mình nhẹ bước nặng thuộc loại hạ lưu. Ăn nói ôn hoà, tề gia khôn khéo.

 

 

 

BẢY TƯỚNG HIỀN, BỐN ĐỨC VÀ BẢY SÁT CỦA PHỤ NỮ.

 

Nữ tử có 7 tướng hiền khả dĩ nhìn thấy qua diện mạo:

 

1 – Đi đứng ngay ngắn, thể trọng.

2 – Tam đình đều đặn, sáng sủa.

3 – Dung mạo đoan trang.

 4 – Không nói thừa, nói nhiều.

 5 – Lúc ngồi, lúc nghỉ ngay ngắn hiền hoà không mê sảng ưỡn ẹo.

 6 – Ngũ quan đều đặn.

 7 – Tam đình tương phối.

 

Có 7 tướng trên thì đẻ con đẹp đẽ thông minh và vượng phu ích tử.

 

 

Nữ tử có 4 đức:

 

1 – Không cạnh tranh với người khác.

 2 – Lúc khổ sở không oán ngôn.

 3 – Ăn uống điều độ, giờ giấc.

 4 – Nghe chuyện không kinh dị, nóng giận không hỉ hả thô lộ.

 

Phàm đàn bà mà đoan trang, nghiêm cung, hình thể đoan chính làm việc chu tất sáng suốt, ngồi không xiêu vẹom ngực rộng mình dầy, vẻ mặt vui tươi, sắc mặt nhuận đều là quý phụ, vượng phu.

 

Nữ tử có 7 sát tướng:

 

1 – Mắt đẹp nhưng mắt vàng là nhất sát.

 2 – Mắt lớn mà mày thô là nhị sát.

 3 – Mắt to miệng nhỏ là tam sát.

 4 – Mũi có tì vết là tứ sát.

 5 – Tai không luân quách là ngũ sát.

 6 – ??? (mất tiêu đâu rồi!)

 7 – Tóc đen mày thưa là thất sát.

 

Phạm thất sát thì dù mặt mày không khuyết hãm, ngũ quan đoan chính cũng vẫn vất vả hoặc thể nào cũng có tình duyên bất chính, lận đận tình trường.

 

Sách tướng viết:

 

 

“Sắc như đào hoa diện như ngân

Thuỳ tri mỹ tướng phản sinh sân

Hình phu hại tử vô thành nhật

Chỉ hảo hao nha liễu hạnh văn.”

 

Dịch nghĩa:

 

Sắc như hoa đào, mặt như áng bạc

Ai ngờ mỹ tướng lại bị phá

Hình phu hại tử, vạn sự khó thành

Biến ra hạng hoa tường liễu ngõ.”

 

 

Tướng đàn bà kỵ trán lông mọc xoáy, trán cao diện hãm, trán có tì vết và nhất là trán hẹp, lông tơ mọc tràn xuống dưới.

 

Tướng đàn bà kỵ thiếu niên tóc rụng, da căng, xương nhô, mặt dài miệng lớn, mặt gầy nổi gân, mặt nhọn eo nhỏ. Sơn căn thấp, hãm, gầy, cằm vẹo, tiếng nói oang oang hay khàn khàn, tính nóng như lửa, mặt có bạch khí như trát phấn, tinh thần thô đục, da thịt lạnh như băng, bàn tay thô to, vai lưng xiêu lệch.

 

 

BÀN VỀ TÍNH CHẤT CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ YÊU QUÁI

 

Yêu phụ (Vampire) không phải là người đàn bà tham dâm hay dâm loạn mà là người đàn bà thích dùng tình dục như một thủ đoạn để chi phối nam giới. Mục đích của người đàn bà không phải ở nơi thoả mãn tình dục, mà mục đích ở nơi chi phối đàn ông.

 

Dumas đã tả tâm lý của yêu phụ qua lời nàng Gautier tức Trà hoa nữ:

 

Tất cả đàn ông đều cùng một ruộc. Khi chúng được thoả mãn rồi là bắt đầu chán ghét, nếu người đàn bà yêu chúng, chúng dễ dàng ruồng bỏ và áp chế. Riêng tôi, tôi không bao giờ để cho bọn đàn ông được thoả mãn và bắ chúng chịu 3 điều kiện của tôi: Tin tôi hoàn toàn, nghe tôi tuyệt đối và quỳ mọp dưới chân tôi.” Ba điều kiện trên đây là đòi hỏi căn bản của bất cứ yêu phụ nào. Nàng đem dung mạo mỹ lệ, và xác thịt khêu gợi cùng miệng lưỡi gian ngoa để thoả mãn tâm lý bạo chúa trong người nàng. Đàn ông trước đàn bà yêu quái chỉ là một thứ đồ chơi. Tình yêu được đổi thành thứ vũ khí đấu tranh. Ái tình tiêu diệt và nhu yếu chi phối làm chủ tể.

 

Tướng cách yêu phụ phải kết hợp vững chắc giữa tiêu diệt và nhu yếu chi phối làm chủ tể.

 

Tướng cách yêu phụ phải kết hợp vững chắc giữa tâm lý với hình thái mới đoán biết được.

 

Yêu phụ thường có 3 đặc điểm:

 

– Đẹp lạ lùng ma quái.

 – Lòng tự tin rất cao.

 – Đa năng hoặc thông minh hơn người.

 

Tâm lý học phân chia hai loại:

 

a) Yêu phụ trong máu huyết, bản chất từ nhỏ đến lớn.

 b) Yêu phụ do biến thái của một duyên cớ uất ức đau khổ.

 

Sử Trung Quốc có nàng Bao Tự ái phi của vua U Vương đời Đông Chu là người đàn bà mang bản chất yêu phụ. Yêu phụ do biến thái là nàng Ngư Huyền Cơ, truyện nàng như sau:

 

Đời Đường có hai nữ thi sĩ luân lạc làm kỹ nữ là: Tiết Đào và Ngư Huyền Cơ.

 

Ngư Huyền Cơ nổi danh ở Trường An giữa lúc trên chính trường đang có nhiều tranh đấu đang hồi khốc liệt. Các sĩ đại phu chán ghét chính trị tìm quên lãng vào cuộc sống văn nhân phong nhã, mượn rượu tiêu sầu, tìm giai nhân giải muộn. Trong đám đó có hai nhà thơ lớn là Ôn Đình Quân và Hồ Đào. Hai người rất quen thuộc với các xóm yêu hoa và đã phát hiện thiên tài thi phú của danh kỹ Ngư Huyền Cơ. Tuy là hai bạn tâm giao nhưng số phận Hồ Đào thì vinh quý còn số phận Ôn Đình Quân thì lận đận. Hồ Đào làm quan đến chức Thái tử thiếu bảo, còn Ôn Đình Quân thì ba lần không đỗ tiến sĩ lại bị các người chấp chánh đương thời không ưa vì tính ông phóng đãng, khinh bạc. Bởi lẽ đó, Ôn Đình Quân với Ngư Huyền Cơ ngay từ phút đầu gặp gỡ đã thành ra hai kẻ “phong trần tri kỷ.” Ôn Đình Quân nhận nàng làm môn đệ thi học. Buổi sơ tập, Ôn Đình Quân lấy thi đề “Giang biên liễu” (Cây liễu ven sông) để Ngư Huyền Cơ làm bài thơ theo thể ngũ ngôn. Ngư Huyền Cơ chỉ mươi phút đã viết xong:

 

“Thuỵ sắc liên hoang ngạn.

Yên tư nhập viễn lâu.

Ảnh bổ thu thuỷ diện.

Hoa lạc điếu nhân đồ.

Căn lão tàng ngư quật.

Chi đê hệ khách thuyền.

Tiêu tiêu phong vũ dạ.

Kinh mộng phục thiêm sầu.”

 

Thơ mỗi ngày gọt giũa một hay thì mối tình của Ngư Huyền Cơ càng đằm thắm đối với thi nhân Ôn Đình Quân, trong khi đó Hồ Đào cũng yêu nàng. Ngư Huyền Cơ không đáp lại tình của Hồ Đào vì họ Hồ thiếu phong thái hào hùng khí phách. Phần Ôn Đình Quân thấy thân thế mình lênh đênh, tự thấy diện mạo xấu xa không xứng với nàng nên bỏ đi. Bơ vơ, Ngư Huyền Cơ bị tú bà gả bán cho Lý Ức làm thiếp. Đêm động phòng nàng cự tuyệt rồi bị vợ chồng Lý Ức xua đuổi, Ngư Huyền Cơ đến làm Nghi Quan nguyện làm đạo sĩ.

 

Do thất bại luyến ái, lại vốn người tài sắc nên tâm sự uất ức khôn nguôi. Ngư Huyền Cơ trở nên dâm đãng gian hoạt, nàng dùng nơi tu hành để làm những chuyện động trời. Nàng dụ dỗ đàn ông lực lưỡng ngu si để tổ chức ăn cướp giết người. Tội lỗi chồng chất – triều đình bắt hạ ngục và phán quyết tử hình.

 

________

Ghi chú:

Trong lịch sử có nàng Cleopatre – nữ hoàng Ai cập cũng thuộc dạng đàn bà này, kết cục cuối cùng cũng là bi thảm – phải tự tử bằng cách cho rắn độc cắn.

 

 

 

LIỄU TRANG THU ĐÀM NGUYỆT TƯỚNG PHU NHÂN CA

 

– “Sát tế tam quyền diện.”

(Trán gồ, lưỡng quyền cao sát chồng).

 

“Ly phu ngách bất bình.”

(Trán lệch biệt ly phu tử).

 

“Dục tri tam độ giá,

  Nữ tác trượng phu thanh.”

(Muốn biết tại sao ba lần lấy chồng, ấy chỉ vì tiếng nói đàn ông).

 

“Nữ nhân giao tất hoạ,

    Phong yêu khẩu đại thuỳ,

    Như tư y thực bạc,

    Bội tế khước vi phi.”

(Con gái ngồi rung đùi, long ong miệng rộng, hai góc miệng chảy xuống, nghèo khổ không đủ ăn đủ mặc, bỏ chồng).

 

“Nữ nhân đào hoa nhãn,

  Tu phòng liễu diệp mi,

  Vô môi do tự giá,

  Nguyệt hạ ước nhân kỳ.”

(Đàn bà đôi mắt đào hoa, thêm lông mày lá liễu tất lẳng lơ hẹn hò con trai dưới trăng và lấy chồng không cần cưới hỏi mai mối).

 

“Kiến nhân yểm khẩu tiếu,

    Thủ quán lược mi đầu,

    Đối nhân du nhãn đổ,

    Chung tu sấn khách du.”

(Thấy người bưng miệng cười, tay quen vuốt mày vuốt tóc, trước mặt mà hay nhìn lén, con gái là loại đa dâm, dễ theo trai).

 

“Cốt thô chung thị tiện,

    Nhãn đại bất vi lương,

    Mi như tân nguyệt khúc,

    Dạ da hoán tân lang.”

(Xương thô là tiện tướng, thêm mắt to và đôi mày cong như trăng đầu tháng thì đúng là loại đàn bà lang chạ).

 

“Diện ngưỡng đa bần tiện,

    Hung cao tất khốn cùng,

    Thanh hùng phương hại trọng,

    Sắc nhuận ý tình nùng.”

(Mặt vênh phần nhiều bần tiện, ngực ưỡn dễ cùng khốn, tiếng nói đàn ông và sắc da hồng nhuận thì giết chồng bằng tính đa dâm).

 

“Dương mục ý tình đa,

    Hà tinh ý bất hoà,

    Vô mao âm hộ tiện,

    Vô xứ bất kha kha.”

(Chơn chớn mắt dê, thao láo mắt tôm, âm hộ vô mao đều là tướng dâm tiện cùng khổ).

 

– “Vô sự đới sầu dung,

    Trần hôi mãn diện lung,

    Sinh ban tịnh hắc tử,

    Tử hướng diểu minh trung.”

(Vô sự mà vẻ mặt buồn rười rượi, mặt sạm đen như có tro bụi bám và lấm tấm ban điểm là tướng chết).

 

“Yêu triết bộ hoành hoành,

    Chung chiêu thụ khổ tân,

    Y lương tam độ nhật,

    Bối tích thị thành khang.”

(Eo gẫy như bước ngang, sớm chiều tân khổ. Lưng thành rãnh, bữa nay lo bữa mai).

 

“Thanh tự phá đồng la,

    Tam hình lục hại đa,

    Ngữ ngôn như kết sáp,

    Đào xứ bị nhân ma.”

(Đàn bà tiếng nói như lệnh vỡ là loại tam hình lục hại, con gấi tiếng lí nhí không gãy gọn hay bị lừa dối dụ dỗ).

 

“Nha sỉ nhược sân sa,

    Thanh hoàng hắc bất nghi,

    Nhược như lựu tử dạng,

    Phú quý thị hiền thê.”

(Răng mọc lởm chởm, màu sắc vàng lẫn lộn với xám không tốt. Răng phải đều như hạt lựu mới là hiền thê phú quý).

 

“Khẩu bạc tị hựu bạc,

    Nhĩ luân hựu phản quách,

    Phát đoản nhãn mi nùng,

    Nhất sinh bất an lạc.”

(Miệng mỏng mũi cũng mỏng, vành tai luân quách lộn ngược, tóc ngắn thưa mà rậm, cuộc sống không yên vui).

 

“Ẩm thực đại lâm ly,

Nan vi quý hiền thê,

Mi tiên sinh hắc tử,

Dạ dạ sấn nhân quy.”

(Ăn uống rơi vãi tung tóe không thể là hiền thê, mày nhọn lại có nốt ruồi, đến đêm hò hẹn tư tình).

 

 

KHÁM PHÁ NHỮNG DẤU VẾT CỦA NGOẠI TÌNH, DẤU VẾT CỦA NHỮNG CUỘC ĐI HOANG

 

Ngoại tình như nàng Phan Kim Liên cho Võ Đại Lang mọc sừng một cách trắng trợn rán bánh bảo chồng đứng bán ở đầu đường để rảnh rang với Tây Môn Khánh. Thế vẫn chưa đủ nàng còn bầy mưu với gian phu giết chồng. Những vụ ngoại tình ấy thì khỏi phải khám phá cũng như ngoại tình cơm bữa xảy ra tại các xã hội phương Tây bây giờ.

 

Tướng thuật là để khám phá bí ẩn đời người trong đó có những tình yêu vụng trộm lén lút.

 

Bên phương Tây thiên hạ đọc “Physiologie du Mariage” của Hônré de Baizac để luận đoán tâm lý và cử chỉ đàn bà. Nhưng ở phương Đông, với tướng thuật người ta có thể nhìn thấy hẳn hoi dấu vết của ngoại tình hay những cuộc đi hoang.

 

Một tướng gia Nhật Bản tên Tam Thạch thắng Ngũ Lang sau khi đã tổng hợp và căn cứ và Nguyên lý tướng pháp Trung Quốc đã viết về tướng thông gian như sau:

 

Trước hết là khám phá qua bộ phận mũi. Theo sách tướng mũi là biểu hiện của phát động ý lực có thể ví như sinh thực khí của nam nhân. Còn môi miệng tượng trưng cho sinh thực khí của nữ nhân. Do đó đường ranh giữa miệng thường báo hiệu quan hệ nam nữ. Nếu chú ý thấy nhân trung có một đường đỏ (xích tuyến) nhỏ như tơ nhện chạy ngang, đấy là dấu hiệu báo sự bất trinh khiết. Người có vết là một phu nhân thì tất “bà lớn” ăn vụng. Người có vết là một tiểu thư thì cô nương hết còn là sử nữ. Xích tuyến phải coi giữa thanh thiên bạch nhật mới tỏ tường, chớ có xem tướng gà mờ mà rơi vào tình cảnh của chàng Trương. Khám phá xích tuyến là khám phá những vụ ngoại tình tế nhị khó biết nhất.

 

Rõ rệt hơn, nhưng chỉ để nhận xét tính vụng trộm của các quả phụ phong lưu đó là những vết ám đen từng vầng nhỏ tròn như cúc áo ẩn hiện ở phần trên mũi, hoặc dài nằm vắt ngang. Hoặc nếu không là quả phụ thì vết ấy báo cho biết người đàn bà có thêm chồng bí mật. Hắc luân cũng thể hiện ở hiên môn hay Phu thê cung (khoảng giữa đuôi mắt và tóc mai).

 

Ở Phu thê cung khả dĩ tìm thất vết tích gian dâm bằng một khoang màu hồng (như da non) nằm duỗi từ đấy xuống đầu quyền (lưỡng quyền), nhưng nếu quá ba ngày rồi thì vết ấy mất đi. Trong trường hợp bị cưỡng bức nó không hiện lên. Nếu hiện lên chứng tỏ một ý nguyện hoàn toàn.

 

Người đàn bà hoang dâm vô độ, nhiều tình nhân thì chứng tích in trên mặt trên bộ vị mà sách tướng gọi là Nam nữ cung (khoảng mi mắt bên dưới đi xuống 2 cm). Nếu thấy một trực tuyến sắc đen chạy từ Nam nữ cung mắt bên này sang mắt bên kia vắt qua sống mũi là quan hệ lưỡng tính đều đều không gián đoạn. Nếu Nam nữ cung của mỗi bên mắt, sắc đen như hình núi non là đã qua thời luyến ái cuồng nhiệt nay cơn say mê giảm bớt. Nếu lúc ẩn lúc hiện biến hoá trong chớp mắt là quan hệ không liên tục thường bị gián đoạn. Đàn bà ngoại tình hầu như tự thả lỏng vô cấm kỵ thì dưới mắt có những dị văn (vết như vết nhăn nhưng mang tính dị thường) hoặc ẩn một làn gân xanh chạy đến bên mũi thì mất.

 

 

BẢY MƯƠI HAI TIỆN TƯỚNG ĐÀN BÀ PHẠM PHẢI TẤT NHIÊN TƯ DÂM

 

Liễu Trang tướng pháp ghi nhận 72 tiện tướng thuộc về dâm tính như sau:

 

 

  1. Đào hoa diện.
  1. Da trắng như phấn.
  1. Huyết không hoa sắc.
  1. Thịt mềm như bông.
  1. Da như tráng dầu.
  1. Mặt nhiều ban điểm (tàn nhang).
  1. Đuôi mắt đổ xuống.
  1. Chưa nói đã cười.
  1. Lắc đầu xua tay (lúc nói chuyện).
  1. Diện đới lưỡng tước (mặt nhọn trán thót).
  1. Diện toàn lưỡng hãm (ấn đường hay mũi bị hãm nghĩa là thót vào).
  1. Mặt từng ụ thịt.
  1. Nhãn lộ bạch quang (tam bạch hoặc tứ bạch).
  1. Môi miệng hay mấp máy.
  1. Góc miệng có vết (khẩu dốc sinh văn).
  1. Đi như vịt, ngỗng (lúc lắc đôi mông).
  1. Cúi đầu liếc mắt.
  1. Trông lén, nhìn trộm.
  1. Tự nói một mình.
  1. Ngực ưỡn đít cong.
  1. Vai so, eo nhỏ.
  1. Rốn lồi hướng hạ.
  1. Nhũ đầu chỉ địa.
  1. Da dẻ nhăn nheo.
  1. Trán nhọn chân rung.
  1. Sỉ như bạch ngọc.
  1. Môi bệch mỏng dính.
  1. Môi xanh môi xám.
  1. Một bưóc toàn thân lắc lư (nhất bộ tam giao).
  1. Bước như chim sẻ nhảy (dưới dướn).
  1. Nói cười bất định.
  1. Miệng lớn mặt sác (gầy).
  1. Thầy người che mặt.
  1. Cười như ngựa hí.
  1. Nói chuyện huyên thuyên (không câu nào ra câu nào!).
  1. Nói một câu đứt ba đoạn.
  1. Đùi hạc, eo cong (hạc thái, loan yêu).
  1. Thân như phong liễu.
  1. Âm hộ vô mao (?)
  1. Đầu gấu tai chuột (đầu to tai vểnh).
  1. Rụt cổ lè lưỡi.
  1. Xoa cằm cắn móng tay.
  1. Âm mao như cỏ (?)
  1. Mặt dài mắt tròn.
  1. Vân vê tà áo, răng gặm nhấm.
  1. Ưỡn lưng thở dài.
  1. Âm hộ thiên về sau (?)
  1. Đi đầu đi trước.
  1. Đi hay ngoái cổ.
  1. Ngồi đứng không yên.
  1. Bắp đùi mọc lông.
  1. Môi cong lưỡi nhọn.
  1. Cử chỉ si mê.
  1. Đứng ngồi lệch trẹo.
  1. Trán dài tóc mai rậm.
  1. Răng quỷ, răng chuột (răng nhỏ hoặc nhọn).
  1. Tính tình đa biến.
  1. Thân dài cổ ngắn.
  1. Mũi hếch lên trời.
  1. Mắt nhắm mi nhăn.
  1. Mình con rắn, ăn như chuột ăn.

62. Cổ nhỏ, mày thưa.  

  1. Ngón tay ngắn, co lệch.
  1. Ăn không biết chán.
  1. Vô sự tự kinh (hay giật mình hãi sợ).
  1. Đầu vẹo trán hẹp.
  1. Lưng uốn vào, bụng nhỏ thót.
  1. Ngủ mộng

 

 

ĐÔNG HẢI THẦN NHÃN Vũ Trị Thiên

 

 

Trần Văn Giang (St)

.

Tìm Hiểu Đàn Bà Con Gái Qua Tướng Thuật – Vũ Tri Thiên

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *