Chữ Việt – Ấn Độ

Liên Quan Đến Phật Giáo

 

 .

.

 

 

Lời mở đầu:

 

Bảng chữ dùng để hiểu nghĩa những chữ viết tắt của bài viết:

 

Ấn = Ấn độ = India; ngày xưa Trung Hoa gọi Ấn là Thiên trúc hay Tây trúc.

Hindie = Ngôn ngữ vùng Bắc Ấn.

Phạn = Ngôn ngữ của giống dân Indo-Aryan thời xưa, bây giờ đã thành cổ ngữ / cổ văn của Ấn độ và Ấn độ giáo (Hinduism).

S = Sanskrit = Tiếng Bắc Phạn, được dùng trong kinh điển Phật Giáo Bắc Tông.

P = Pali = Tiếng Nam Phạn, được dùng trong kinh điển Phật Giáo Nam Tông. Hai ngôn ngữ nầy rất gần nhau trong cấu trúc như  tiếng Việt ngoài Bắc và trong Nam.

TH = Trung Hoa = Trung Quốc = Tàu.

Chữ TH = Chữ Hán = Chữ Tàu = Chữ Nho.

QT = Quan Thoại = Giọng nói Bắc Kinh = Giọng nói chánh thức của TH.

HV= Giọng Hán Việt = Giọng đọc chữ Hán của người Việt Nam, và chỉ người Việt Nam có học chữ Hán theo giọng Hán Việt mới đọc được giọng nầy từ chữ Hán. Chữ Hán Việt là giọng HV viết bằng quốc ngữ.

Kh = Khmer ngôn ngữ hay dân tộc quốc gia Kampuchia (= Kp), trước kia còn có tên Cam-bốt (Cambodia).

 

*

Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam qua hai ngả. Ngảy đầu đi ngang qua Trung Hoa rồi vào Việt Nam, gọi là phái Đại thừa (S: Mahàyana) hoặc Bắc Tông. Ngả thứ hai về hướng Nam qua xứ Sri Lanka (tên cũ là Ceyland hay Tích Lan) gọi là phái Tiểu thừa (S: Hinayana), còn gọi là Phật giáo nguyên thủy (P: Theravàda), hay Nam Tông. Hầu hết các kinh sách Phật ở Việt Nam đều được dịch từ những quyển kinh Phật bằng chữ Tàu.

 

Người Tàu dùng chữ Tàu (Hán) ghi lại âm tiếng Sanskrit hay tiếng Pali dùng trong kinh sách Phật giáo.

 

*

 

  • DỊCH ÂM VÀ DỊCH NGHĨA

 

a) Cách “dịch âm”

 

Người Trung Hoa (TH) dùng chữ Hán có âm giống nguyên ngữ Ấn độ và ghi lại chữ đó (dịch âm). Khi họ phát âm chữ Hán đó bằng giọng Tàu thì âm đọc ra đó giống như (hay gần giống) âm gốc India.

 

Ví dụ chữ Paramita đọc đầy đủ theo giọng HV là Ba la mật đa, người Trung Hoa đã bỏ đi âm cuối và ghi lại cách đọc âm bằng 3 chữ Hán 波羅 密 và đọc là Pa la mi (như đã nói, TH không có phụ âm “r,” nên dùng phụ âm “l” và do đó đọc pa la mi thay vì pa ra mi).  VN đọc ba chữ Tàu đó theo giọng Hán Việt (HV) là ba la mật.

 

[(Nghĩa của từng chữ HV: “ba” = sóng; “la” = lưới; và “mật” = dày hay

kín đáo; nhưng viết chung thì không có nghĩa gì cả, vì chỉ “mượn âm để đọc chữ parami(ta)]. Do đó phải giải thích “ba la mật” = parami(ta) = toàn thiện, giác ngộ, hay đến bờ giác ngộ.

 

Ví dụ thứ hai là chữ Prajna được người TH dịch âm là 般若 (HV = bát nhã, còn đọc là ban nhược (ban = loại, giống; nhược = thuận theo). Hai chữ bát nhã chỉ là mượn âm để đọc chữ prajna mà thôi. Như vậy khi giọng Hán Việt giống giọng “dịch âm” của Trung Hoa thì chữ đó đọc gần giống nguyên ngữ Ấn. Nhưng nếu giọng HV khác giọng TH thì chữ “dịch âm”sẽ khác giọng đọc Ấn của nguyên ngữ.

 

Ngoài những ý niệm ra, họ thường dùng cách “dịch âm” để “dịch” tên người (nhơn danh) hay tên các nơi chốn (địa danh) và tên các cây cỏ lạ của Ấn (nhưng cũng có khi họ dùng cách “dịch nghĩa” hoặc cả “dịch âm

lẫn dịch nghĩa”).

 

Ví dụ về dịch âm tên người như:

 

Bồ đề đạt ma (Bodhidharma) = tên của vị Tổ sư thứ 28 và là tổ sư cuối cùng của Thiền tông ở India, sang Trung Hoa giảng đạo và trở thành vị Tổ sư đầu tiên của Thiền tông TH hay Đông độ Thiền tông.

 

Vì vậy trong văn chương người ta còn dùng Tổ sư Bồ đề hay Tổ Đạt ma để gọi vị Tổ sư nầy.

 

[(Tổ sư đầu tiên của Ấn độ, sau khi Phật nhập niết bàn là Đại Ca diếp do chữ Maha Kasyapa (S: Maha = lớn = đại; đây là dịch nghĩa. Và Ca diếp là dịch âm của Kasyapa)].

 

Ví dụ về dịch âm địa danh chúng ta có thành Ca tỳ la vệ (P: Kapilavatthu) = tên thủ đô vương quốc lúc Phật Thích Ca còn là thái tử ở đó). Ngài đã nhập niết bàn ở thành Câu thi na (P: Kusinàrã).

 

Ví dụ về dịch âm tên thảo mộc: cây Sala (hay ta la) do chữ Sàla (S&P); tên khoa học là “shorea robusta.” Sách chép rằng Phật đã nhập niết bàn khi nằm trên võng treo giữa hai cây sala ở thành Câu thi na. Vì vậy người TH còn chỉ nơi nầy bằng chữ Sa la song thọ. Thí dụ khác là hoa Ưu đàm tên ngắn của Ưu đàm ba la (S: Udambara).  Hoa nầy theo truyền thuyết thì 3000 năm mới nở một lần khi có một vị Phật xuất hiện; nó còn có tên là hoa Ưu bát la (S: utpala); tên HV là Linh thụy hoa.

  

[(Xin xem lại về vấn đề “dịch âm” các nhân danh hoặc các địa danh ở bài Vấn đề Dịch Âm & Dịch Nghĩa ở trước.)]

 

b) Cách “dịch nghĩa”

 

Khi tiếng Hán có chữ diễn tả được hết ý nghĩa của nguyên ngữ Ấn, Trung Hoa dùng chữ Hán để dịch nghĩa. Khi VN đọc lại chữ đó bằng giọng HV thì giọng HV đó hoàn toàn khác với âm của nguyên ngữ. Thí dụ chữ Ba la đề mộc xoa (S: pratimoksha) được dịch nghĩa Giới bổn = bản liệt kê những giới luật của tì kheo (“Ba la đề mộc xoa” và “Giới bổn” có âm khác nhau hoàn toàn). Thí dụ khác, như trên đã nói, là chữ dịch âm của Brajna = bát nhã (dịch nghĩa: trí huệ). Nếu không phải là giáo hữu Phật giáo, chúng ta “có thể” không hiểu bát nhã là gì. Nhưng khi đọc chữ trí huệ là chữ “dịch nghĩa” của nguyên ngữ Prajna, chúng ta có thể hiểu được nghĩa của nó. Cũng y như vậy cho chữ ba la mật trên, người Tàu dùng 3 chữ Tàu khác 到彼 岸 để “dịch nghĩa,” mà âm HV là đáo bỉ ngạn = “đến bờ bên kia” (đến bờ giác ngộ). Họ còn dịch nghĩa chữ Paramita là 大幸 đại hạnh = hạnh phước to lớn. (Tuy nhiên kinh sách TH và cả kinh sách Việt Nam, vẫn dùng “bát nhã ba la mật” có lẽ những chữ “dịch nghĩa” tuy ngắn gọn, nhưng không thể diễn đạt hoàn toàn ý nghĩa thâm sâu của hai chữ prajna paramita)

 

Với nhận xét về “dịch âm” và “dịch nghĩa” bên trên, chúng tôi sẽ ghi nhận tìm hiểu và học hỏi những chữ Việt gốc India trong văn chương Phật giáo theo thứ tự Tam bảo trong Phật giáo là Phật, Pháp (kể cả Kinh), và Tăng.

 

 

  • PHẬT

 

Sau đây là tên các vị Phật, Đại Bồ tát, và Bồ tát chữ HánViệt gốc India mà chúng ta thường nghe đến (theo thứ tự a, b, c).

 

– Bồ tát: Diệu âm, Diệu đức, Địa tạng vương, và Thương bất khinh Bồ tát.

 

– Đại bồ tát: Quan thế Âm, Đại Thế Chí, Địa tạng vương, Phổ hiền, và Văn thù đại bồ tát v.v…

 

– Phật: Bảo Hoa Đức, Ca Diếp, Danh Quang, Danh văn, Diệm kiên, Đa bảo, Đại Nhựt Như lai, Hương Quang, Hương Thượng, Nhật sinh, Thích Ca Mâu Ni, Tịnh quang, và Võng minh Phật v.v…

 

Chúng tôi sẽ tìm hiểu những chữ bồ tát, bụt, la hán, phật, và một ít chi tiết về một vài vị Phật và Bồ tát kể trên. (theo thứ tự a, b, c):

 

A Di Đà 阿 彌 陀 (dịch âm) hay Di Đà (S: Amitabhà) = Ánh sáng vô lượng hoặc đời sống vô tận; vì vậy trong kinh sách còn gọi phật A Di Đà là Phật Vô lượng Quang hay Vô lượng Thọ. Trong kinh A Di Đà, Phật

Thích Ca giảng về phật A Di Đà như là vị giáo chủ miền Tây phương cực lạc.

 

Câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật” gồm sáu chữ, là một câu niệm hết sức phổ thông, chữ HV gọi là Di Đà lục tự.

 

[(Nam mô 南 無 (= nam vô hay na mô), dịch âm < S, P: Namo, = (dịch nghĩa) “qui mạng, qui y, bày tỏ lòng tin tưởng nương tựa vào ai” (5); cũng có nghĩa là chí tâm đảnh lễ hay kính lễ chư phật, bồ tát. Câu niệm “Nam mô A Di Đà Phật” sở dĩ phổ thông là vì bắt nguồn từ phép tu rất phổ thông là phép tu “tịnh độ,” một pháp môn căn bản trong Kinh A Di Đà niệm danh hiệu đức phật A Di Đà “để được vãng sanh về cõi cực lạc ở Tây phương.” Trong giới đạo hữu, sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” dùng làm câu chào nhau.  Sau khi hoàn toàn Việt Nam hóa, sáu chữ nầy được rút gọn thành A Di Đà Phật hoặc hai chữ mô phật, thật ngắn, gọn và vẫn đầy đủ ý nghĩa tụng niệm vừa bình dân lại vừa tôn kính, và còn dùng như một lời chào, một câu chúc đầy ý nghĩa.)]

 

Bồ Tát chữ rút gọn của Bồ đề tát đóa (là âm HV của 菩提薩埵 = dịch âm của S: bodhisattva; P: bodhisatta). Dịch nghĩa: Bodhi = giác, sattva = chúng sanh. Bồ Tát = người đã giác ngộ và phổ độ chúng sanh.  Vì lo giúp người khác giác ngộ nên Bồ Tát còn được gọi là đấng giác tha (là chữ dịch nghĩa của bodhisatta).

 

Theo giáo lý Phật giáo nguyên thủy, bồ tát còn là một cấp bực dùng riêng trong việc tu tập “Ba la mật” của Phật Thích Ca, khi Ngài sắp đạt thành ngôi vị “Phật,” ngôi vị thứ chín trong thập hiệu.

 

Bồ tát ma ha tát (S: bodhisattva mahàsattva) = Đại Bồ tát = Những Bồ tát “chưa muốn đắc ngôi vị phật” vì còn muốn tiếp tục cứu độ chúng sanh.

 

Di Lặc (Phật) (S: Maitreya; P: Metteyya) Phật vị lai sau Phật Thích ca. Tượng Phật Di Lặc, nếu chùa nào có thờ, là ông Phật bụng phệ, trên người có sáu đứa trẻ (lục tặc) tượng trưng cho 6 giác quan mà con người cần chế ngự.

 

Dược Sư (Phật) (Bhaisajya Buddha). Ngài có hai Bồ tát phụ tá (Cả ba trong sách gọi là Dược Sư Tam Tôn). Ngài có lời nguyện là ai nêu danh Ngài thì sẽ tránh được khổ đau vì bệnh tật.

 

Đại Thế Chí (Bồ Tát). (S: Mahasthana) cùng với Quan Âm, ngài là phụ tá cho Phật A Di Đà. Theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí, theo lời yêu cầu của Phật Thích Ca, đã trình bày cách “niệm Phật tam muội” cho Tôn giả A nan nghe. Ở các chùa, ba vị Phật được thờ chung trên điện, với tượng Di Đà ở giữa, Quan Âm bên trái và Đại Thế Chí bên phải, kinh sách gọi là:

 

Di Đà Tam Thánh.

 

Ngôi vị Phật (S: Anuttara Samyak Sambodhi) dịch âm là A nậu đa la Tam miệu Tam bồ đề; dịch nghĩa là Vô thượng (tối cao) Chánh đẳng (chơn chánh) Chánh giác (hiểu biết đúng đắn) đọc tắc là Chánh đẳng giác = ngôi vị cao nhất trong việc tu tập để thành Phật

 

Phật (S & P: buddha). Âm HV = Phật đà 佛 佗, Việt Nam đọc gọn là Phật. Buddha dịch nghĩa là giác giả = “người hiểu rõ lẽ sống chết và đường lối thoát khỏi cảnh luân hồi đau khổ.” Theo ý nghĩa nầy, ai tu tập viên mãn đều có thể trở thành Phật.

 

Chữ Phật đã thành một chữ rất phổ biến trong tiếng Việt. Thành ngữ có câu: “Khẩu phật tâm xà” (miệng nói chuyện tốt như Phật, nhưng lòng lại độc ác như rắn); hoặc “Phật tại tâm trung” (lòng luôn nghỉ đến việc tốt, luôn tưởng Phật thì phật tánh đã ở trong tâm, trong lòng).

 

Ca dao cũng có câu:

 

Vô chùa thấy Phật muốn tu

Về nhà thấy mẹ, công phu chẳng đành.

 

Thơ của Chu Mạnh Trinh có câu:

 

Lần tràng hạt niệm nam mô Phật,

Cửa từ bi công đức biết là bao.

 

Việt Nam ta còn dùng chữ Bụt, (cũng từ chữ Buddha) thay vì Phật. Chữ nầy cũng rất phổ thông trong dân gian, dù họ có theo Phật giáo hay không.

 

Trong bài thơ Động Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh có câu:

 

Bầu trời cảnh bụt

Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay.

 

Tục ngữ cũng có câu:

 

Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”;

hoặc: “Bụt trong nhà không thiêng bằng Thích Ca ngoài đường.”

 

Phật đản: ngày sinh nhật của Phật Thích Ca (vào ngày rằm tháng tư âm lịch. Năm sinh của đức Phật được dùng làm năm thứ nhứt của Phật lịch (Tây lịch 2007 = Phật lịch 2551).

 .

.

Quan Âm 觀 音 hay Quan thế Âm (S: Avalokiteshvara) hay Quán thế Âm, tên vị đại bồ tát tượng trưng cho lòng từ bi. Đây là vị Bồ Tát bình dân nhất trong dân gian, và có tên là Phật Bà. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn (Phật Thích Ca kể các công hạnh của Quán thế Âm Bồ Tát với 32 hóa thân khác nhau để cứu độ chúng sanh) thường được dùng làm kinh chánh, tụng niệm trong lễ cầu an ở các chùa thuộc Bắc tông. Tượng Phật Bà thường được dựng trước các chùa, tay trái có nhành liễu, tay mặt có tịnh bình. Việt Nam có 2 truyện tích về Phật Bà là truyện Quan Âm Nam Hải (nói về tích công chúa Diệu Thiện của Ấn Độ đến Việt Nam, tu ở chùa Hương Tích và thành Phật Bà); và Quan Âm Thị Kính (người đàn bà bị tội oan mưu sát chồng, cải dạng đàn ông đi tu, và thành Phật Bà).

 .

.

Thích Ca Mâu Ni (Phật), 釋迦 牟 尼 (dịch âm của S: sakyamuni).  Thích ca hay sakya (S & P) là “tên họ” của Phật. Mâu ni trong tiếng Phạn là có lòng nhơn từ, hoặc lặng lẽ (HV: năng nhơn & tĩnh mặc). Nói khác đi, Thích ca Mâu Ni có nguyên nghĩa là người họ Thích có lòng nhân từ và tĩnh lặng. Trong kinh Phật, người ta còn gọi Ngài là Đức Thế Tôn. Thế Tôn là danh hiệu cao nhất trong “thập hiệu” của Phật, bắt đầu bằng Như Lai, Ứng Cúng…  và cao nhất là Phật (= người đã được giác ngộ hoàn toàn). Và Thế Tôn (Lokanàtha) = người đã được mọi người tôn kính. Kinh sách của Trung Quốc còn dùng chữ Đại Thánh hay Đại Đạo Sư để chỉ đức Phật.  Ngài là con vua Tịnh Phạn (P: suddhodana) của một vương quốc mà ngày nay thuộc xứ Nepal, một quốc gia ở Đông Bắc Ấn. Ngài từ bỏ ngôi vị thái tử (người con được kế nghiệp vua cha) rời xa vợ con lên đường tu tập lúc 29 tuổi, đạt được giác ngộ (thành phật) năm 35 tuổi. Tiếp theo Ngài đi thuyết giảng trong 40 năm cho đến ngày viên tịch (chết) khi nằm trên võng, giữa hai cây sa la (S & P: sàla), gần thành phố Câu thi na (Kusinàra), India. Tăng giới VN dùng chữ Thích của Phật Thích Ca để đặt pháp danh khi qui y (như Thích Minh Không, Thích nữ Diệu Tâm v.v.).

 

La hán. Do chữ A la hán 阿羅 熯, dịch âm < (P: arahant; S: arhat; TH đọc “r” thành “l”) = “quả vị” thứ tư, quả vị cao nhứt của những “thanh văn.”  Quả vị là dịch nghĩa của chữ Phala có nghĩa là “địa vị đạt được do kết quả của sự tu tập thành công.” Bốn quả vị từ thấp đến cao nhất là: Tu đa huờn, Tu đa hàm, A na hàm và A la hán.

 

Thanh văn là dịch nghĩa của chữ Sravaka (S) hay chữ Sàvaka (P) = những vị học trò sống gần Phật Thích Ca, nghe giảng Kinh Phật, và tu theo pháp “bát chánh đạo” và đạt được quả vị.

 

 

  • PHÁP

 

(Những chữ trong phần nầy cũng theo thứ tự a, b, c.)

 

Kinh: Xin xem chi tiết về kinh nơi chữ Tam tạng kinh điển tiếp đoạn sau chữ pháp.  Sau đây là tên vài bộ kinh quen thuộc trong Phật giáo mà các Phật tử đều có nghe đến hoặc được giảng dạy ít nhiều trong những trường hợp khác nhau.

 

Kinh Chuyển pháp luân (S: dharmacakrakappavattana) = Đây là những gì Đức Phật đã thuyết giảng lần đầu về Tứ Diệu đế, tại vườn Lộc uyển cho năm anh em ông Kiều Trần Như nghe (họ chứng được quả vị “thánh” sau khi nghe kinh nầy).

 

Kinh “Bát Nhã Tâm Kinh” (Prajna Paramita Hridaya) = một bài kinh trong Kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đường Tam tạng dịch bài Bát Nhã Tâm Kinh nầy ra Hán văn gồm 260 chữ. Có nhiều bản dịch Việt ngữ. Bản dịch của ông Huỳnh Hữu Hồng (Thiện Nhựt) trong quyển Tìm hiểu Tâm kinh bát nhã ba la mật (3) cũng dùng đúng 260 chữ dễ nhớ cho ai muốn niệm kinh nầy bằng tiếng Việt.

 

[(Bản Hán văn vẫn dùng chữ “bát nhã” thay vì dùng “trí huệ” có lẽ họ muốn giữ nguyên chữ Prajna đễ diễn tả ý nghĩa cao thâm của chữ nầy. Hơn nữa, “trí huệ” có thể bị nhầm lẫn với trí tuệ. TH cũng có dịch cả hai chữ prajna paramita trí độ (độ = giúp kẻ khác giác ngộ); nhưng tên của bộ Kinh TH vẫn dùng “Bát nhã Ba la Mật.”)]

 

Bài Bát Nhã Tâm Kinh là một bài mà hầu hết các Phật tử đều thuộc lòng và đọc sau các khóa lễ Phật (trong các chùa Bắc Tông):

 

“Tâm kinh đã tóm gọn các giáo lý quan trọng trong Phật giáo, từ việc phân tách thân tâm nầy ra làm năm uẩn, sáu căn,…  mười tám giới, xuyên qua các nguyên lý cao thâm về tánh không, Mười hai Nhân Duyên…  Tứ Diệu Đế, Bồ tát đạo, cho đến các cảnh giới xuất thế Niết Bàn, quả vị Vô thượng Bồ đề.”(2).

 

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật = Ma ha Bát Nhã Ba la mật Tu đà la. Đây là chỉ là chữ dịch âm của chữ [(S: maha prajna paramita (Sutra)], đọc gọn là (Kinh) Bát Nhã. Mahà = to lớn; Prajna = trí huệ; Paramita = HV: đáo bỉ ngạn = giác ngộ hay đến bờ giác ngộ, còn gọi là đại hạnh; Sutra = kinh kệ.

 

Kinh Lăng Nghiêm (Suramgama Sutra) hay Kinh Thủ Lăng nghiêm. Kinh nầy gồm các Pháp môn như Niệm Phật vãng sanh cực lạc do Bồ tát Đại Thế chí thuyết giảng; và pháp môn Viên thông do Bồ tát Quan thế âm chỉ dạy cho ngài Anan (người đã được Phật giải cứu sau khi bị dâm nữ Matanga quyến rũ); ngoài ra còn có bài chú Lăng nghiêm mà phật tử thường tụng vào buổi công phu khuya.

 

Kinh Pháp Hoa hay Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (S: saddharma pundarika Sutra): Bộ kinh quan trọng của Phật giáo Bắc Tông.  Trong đó ý chánh là Chư Phật ra đời để khai triển Phật tánh cho chúng sanh thấu hiểu, nhập tâm và chỉ đường lối tu tập cho đến Chánh đẳng giác.

 

Tam tạng Pháp sư Kumarajiva dịch kinh nầy sang Hán văn, và Hòa Thượng Thích Trí Tịnh dịch sang chữ Việt.

 

Kinh Vô lượng thọ (S: amytayus sutra): Một trong ba bộ kinh căn bản của Tịnh Độ tông. Tên Kinh nói lên tuổi sống vô cùng của Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc (Tây phương). Hai bộ kinh kia là A Di Đà Kinh Quán Vô lượng thọ Kinh (S: amitayusdhyana sutra).

 

Còn rất nhiều bộ Kinh khác, cũng có tên hoặc dịch âm hoặc dịch nghĩa từ chữ Phạn như: Đại Bát Niết Bàn Kinh (Mahà Parinirvàna Sutra), Hoa Nghiêm Kinh (Avatamsaka Sutra) v.v..

 

Pháp: Dịch nghĩa của chữ Dharma (S,) hay chữ Dhamma (P). Theo đạo hữu Thiện Nhựt (2) chữ Pháp có ba nghĩa chánh:

 

1) Lời giảng của Phật; chữ Pháp nầy viết hoa, còn gọi là Chánh Pháp = chỉ tất cả những kinh sách về giáo lý Phật. Những lời giảng nầy lúc đầu chỉ truyền miệng vì chưa có chữ viết. Mãi đến kết tập (gom góp đúc kết) lần thứ tư của các cao tăng, (khoảng 300 năm sau ngày Phật diệt độ) mới chép vào trên lá bối bằng tiếng Pali. Toàn bộ đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ngoài hệ Pali ra còn có hệ Sanskrit, hệ Hán tạng, hệ Tây tạng. (Khoảng nửa thế kỷ sau cùng của thiên niên kỷ thứ hai, nhiều bộ kinh cũng đã được dịch ra tiếng Việt).

 

2) Pháp môn, Pháp tu: Cách thức tu hành như Pháp thiền, Pháp môn Tịnh độ (trong kinh A Di Đà), Phổ Pháp môn (trong kinh Pháp hoa).

 

3) Pháp, có nghĩa rộng, “chỉ tất cả sự vật, có hình hay vô hình, có thể đặt tên để gọi, làm khởi lên một ý trong tâm.” Chữ Pháp nầy được viết chữ thường, dharma, dhamma.

 

Tam tạng Kinh điển: là một bộ kinh sách lớn gồm có 3 phần hay ba tạng (tạng = giỏ đựng sách hay kho sách). Ba bộ sách đó là:

 

Luật tạng (dịch nghĩa của chữ Vinaya Pitaka) gồm 5 quyển nói về giới luật trong Phật giáo, ngăn cấm những hành vi tội lỗi.

 

Kinh tạng (S: sutra pitaka).  Kinh là chữ gọn của Khế kinh dịch nghĩa của chữ Sutra hay Sutta = những bài giảng về lý thuyết và phép tu tập của Phật. Khế là “thích hợp với căn cơ người nghe và phù hợp với chơn lý.” [(TH dùng chữ Khế kinh để chỉ riêng kinh Phật vì ở TH còn có những bộ kinh của các tôn giáo hay học thuyết khác như Ngũ kinh (kinh Dịch, kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, và kinh Xuân Thu) của Nho giáo; và Đạo đức kinh của Lão giáo.)]

 

Kinh tạng hay Khế kinh gồm 5 bộ về kinh kệ. Kệ = bài thơ tóm lượt ý chánh trong một đoạn kinh hay cả quyển kinh cho dễ nhớ, nhưng “kinh kệ” đi chung chỉ tất cả các kinh.

 

Luận tạng (S: abhidharma pitaka): Gồm 7 bộ luận với những bài giải thích thêm cho kinh được rõ nghĩa hơn. Trung Hoa còn gọi là Vi diệu pháp. (Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ (Khai kinh kệ, Phật Giáo và Cao Đài).

 

[(Đường Tam tạng. Nhà sư nổi danh đời nhà Đường bên Trung Hoa là Trần Huyền Trang, đi qua nước Thiên Trúc (Ấn) thỉnh cả 3 tạng kinh về Trung Hoa và dịch ra chữ Hán. Do đó, ông còn có biệt danh là Đường Tam tạng+, hay Tam tạng Pháp sư (pháp đây là Chánh Pháp) = vị sư nhà Đường rành về Tam tạng Kinh Điển.

 

(+ Chỉ có hai người mang biệt danh “Tam tạng” nầy; vị sư thứ hai là một người Ấn tên Kumarajiva (1).)]

 

 

  • TĂNG

(Những chữ trong phần nầy cũng theo thứ tự a, b, c.)

 

Cà sa (S: kasaya; P: kesa) hay Áo cà sa có nghĩa là áo hoại sắc = áo nhuộm màu bùn, dùng màu từ vỏ cây làm cho bớt vẻ hoa hòe, sặc sỡ.

 

Tu sĩ thường dùng 3 áo (tam y): Chiếc áo ngoài, và là chiếc áo đầu có tên là tăng già lê (S: samghati). Hai áo kia gồm áo giữa hay uất đa la tăng (S: uttarasamga) và áo trong hay an đà hội (S: antarvasas). Theo nguyên nghĩa, áo cà sa gồm những miếng vải vụn (lượm được ở các đống rác) ráp lại. Áo samghati gồm 9 miếng; áo utarashanga, 7 miếng; và áo antarvasaka, 5 miếng. Trung Hoa còn gọi áo cà sa là phước điền y, giải thoát y, hay vô cấu y (áo không nhuốm bụi đời).

 

Về màu sắc, tăng sĩ Bắc tông dùng màu “già” hoặc vàng sậm (riêng tăng sĩ Tây tạng dùng màu đỏ sậm); phái Nam tông chọn màu vàng lợt.

 

Cao tăng = Vị sư nhiều đức hạnh, cao quý.

 

Ni = Chỉ chung tu sĩ phái nữ, do chữ Tỳ kheo ni (P. Bhikkhuni)

 

Ni cô = Tỳ kheo ni (P: bhikkhuni) = Nữ tu sĩ đã thọ giới Cụ túc. [(Tỳ kheo (P: bhikkhu) chỉ chung tu sĩ đã thọ Cụ túc giới)]. Người bình dân hiểu chữ Ni cônữ tu sĩ Phật giáo.

 

Ni sư: Tì kheo ni đã có trên 30 năm tu tập, ngang hàng với “Thượng tọa” bên nam phái. Từ đó sanh ra chữ Ni chúng = cộng đồng các nữ tu, Ni tự = chùa sư nữ.

 

Sa di (S: shramanera P: samanera) = tu sĩ trẻ vừa mới tu tập [(nam: Chú tiểu, và nữ: Sa di ni (P: samaneri)]. Khi đến 20 tuổi mới thọ tỳ kheo giới.

 

Sa môn (S: shramana; P: sàmana) = Tu sĩ ẩn cư bằng lòng tránh điều ác, làm việc thiện và sống nghèo khó, thường là qua cách khất thực (xin ăn).

 

= Các tu sĩ nói chung có thể chỉ phái nam, nữ hay một chức phận (sư trụ trì, sư trưởng, sư ông, sư bà).

 

Ca dao:

 

Đêm nằm nghe vạc trở canh

Nghe sư gõ mõ nghe anh dỗ nàng.

 

 

Tăng. (dịch nghĩa của S &P: sangha). Có 2 nghĩa:

 

  1. Chỉ giáo hội Phật giáo qua chữ Tăng già.
  2. Chỉ chung các tu sĩ Phật giáo bằng chữ tăng hay tăng ni, người theo đúng đường lối chánh pháp của Phật. Còn gọi là tăng chúng, tăng già hay tăng già lam (còn gọi là hòa hiệp tăng = nhóm sư tăng từ 3 người trở lên, sống theo “lục hòa”). Ngoài ra trong sách cũng dùng những chữ sau đây:

 

Tăng bảo = Giới tăng ni được xem như là một trong 3 điều quý báu của đạo Phật, nên có chữ tăng bảo.

 

Tăng thống = Vị cao tăng thống lãnh giáo hội Phật giáo.

 

Tăng Chi Bộ Kinh (P: anguttara nikàya) là tên Bộ Kinh thứ tư trong tạng Pali, gồm gần một vạn kinh nhỏ sắp theo thứ tự những pháp môn; còn gọi tắt là Tăng Chi, hay

 

Tăng Nhứt (do chữ Tăng Nhứt A hàm = Bộ Kinh thứ tư bên Hán tạng).

 

Ưu bà di (S: upasika) = Thiện nữ tu tại nhà.

 

Ưu bà tắc (S: upasaka) = Thiện nam tu tại gia;

 

Sau hết trong tiếng bình dân còn dùng chữ Sãi để chỉ sư phái nam, và Vãi, cho phái nữ (ông sư, bà vãi; Nguyễn Cư Trinh có một tác phẩm nổi danh tên Sãi Vãi.)

 

 

  • MỘT SỐ Ý NIỆM CĂN BẢN VỀ ĐẠO & CÁCH TU TẬP

 

Sau đây là một số ý niệm căn bản trong Phật giáo và một số chữ khác được dùng thường trong kinh sách Phật giáo (theo thứ tự a, b, c.)

 

Bát chánh đạo = Tám ngành của con đường tu tập (xem chữ đạo đế bên dưới).

 

Bát nhã ba la mật (prajna paramita): Trí độ. Xem chữ Kinh Bát Nhã Ba la mật bên trên. Còn gọi là trí huệ ba la mật = Trí sáng suốt dẫn đến bờ giác ngộ. Đây là pháp tu thứ sáu trong Lục độ.

 

Địa ngục. (S: niraya; P: naraka) = Nơi giam vong linh những người phạm tội và họ sẽ bị hình phạt nơi đây. (“Kinh Địa tạng có tả rõ những cảnh ở địa ngục).

 

Giới. Có hai nghĩa:

 

Nghĩa đầu do chữ Loka hay Dhâtu (S) = phạm vi; nhưng trong Phật giáo dùng chữ nầy để chỉ những cơ quan trong con người và liên hệ của nó với cảnh vật bên ngoài. Mười tám giới gồm có: lục căn giới (giới mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý); lục trần giới (sắc, thanh, hương, vị, xúc chạm, và ý tưởng; và lục thức giới (sáu ý thức do sáu căn xúc chạm với sáu trần sinh ra).

 

Nghĩa thứ hai chỉ những điều cấm được ghi trong luật tạng. Thí dụ “Ngũ giới” cho cư sĩ tại nhà (cấm: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu); sa di có Thập giới; Tì kheo và tì kheo ni có Cụ túc giới (nam: 250 & nữ: 350 giới) v..v..

 

Giới bổn (dịch nghĩa) hay Ba la đề mộc xoa (dịch âm) của chữ (S: pratimoksha; P: pàtimokkha) = “Bản liệt kê những giới luật của tì kheo, được đọc lên mỗi đầu tháng và giữa tháng, trong buổi lễ Bồ tát.”

 

Giới luật (xem chữ giới và giới bổn bên trên): chỉ chung những luật lệ mà hành giả phải tuân thủ trong suốt đời tu tập

 

Luân hồi (S&P: samsara) = Sanh ra lớn lên, chết đi, rồi tái sanh trở lại (Luân = bánh xe; hồi = trở lại).

 

Lục độ hay Lục ba la mật: Sáu pháp tu để đạt đến sự toàn thiện, còn gọi là bồ tát đạo; pháp tu tập đưa hành giả đến bờ giác ngộ (= độ). Sáu ba la mật gồm có: bố thí ba la mật, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí huệ ba la mật.

 

Nghiệp. (S: karma; P: kamma) = Các hành động thiện ác đã xảy ra khiến con người phải tái sanh trong vòng luân hồi. Nghiệp có thể do ý tưởng, lời nói, và hành vi tạo ra (ý nghiệp, khẩu nghiệp, thân nghiệp). Và cũng có loại ác nghiệp và thiện nghiệp, v.v.

 

Ngũ thừa = Năm phép tu tập gồm: Nhơn thừa (giữ tròn ngũ giới, tái sanh làm người); thiên thừa (giữ tròn thập thiện, tái sanh về trời); thanh văn thừa (tu pháp Tứ Diệu đế, đạt quả vị a la hán); duyên giác thừa (tu pháp thập nhị nhân duyên, đạt vị “Bích chi Phật); và bồ tát thừa (tu pháp lục độ, đắc quả vị Phật).

 

Niết bàn (nát bàn). (S: nirvana; P: nibbàna) = ra khỏi sự u tối của phiền não (nir = ra khỏi; vana = rừng u tối) = cõi vắng vẻ, thung dung an toại. Có 2 loại niết bàn: a) “Hữu dư niết bàn” = Cảnh giới của người tu tập đắc quả vị A la hán (vô sanh, không phiền não; và b) “vô dư niết bàn” = Cảnh giới hoàn toàn an tịch sau khi vị A la hán đã lìa thân xác.

 

Theo giáo lý Nam Tông niết bàn có 3 đặc tính: vĩnh cửu (P: dhuvà), đáng yêu thích (P: subha), và an lạc (P: sukha). Theo Bắc Tông, niết bàn có 4 đặc tướng là vĩnh cửu, an vui, thật sự hằng hữu, và thanh tịnh.  Trong đời sống thường ngày, người ta dùng chữ nhập niết bàn khi một cao tăng hay một bậc chơn tu lìa đời. Trong kinh sách còn dùng chữ Phật/Pháp tánh, hoặc Phật/ Pháp tướng, hay tịch diệt để chỉ niết bàn.

Sân (P: dosa) = sự giận dữ, ý muốn tổn thương người khác.

 

Si (P: moha) = Sự vô minh, thiếu trí huệ, ngu muội.

 

Ta bà hay Sa bà (S & P: saha) = Cõi đời, nơi con người đang sinh sống và chịu đựng tất cả buồn khổ, đau đớn, phiền não, sợ hãi. “Cõi sa bà” là nơi Đức Phật giáo hóa chúng sanh. Trong sách Việt Nam còn dùng ta bà thế giới = Không có nơi chốn rõ rệt (đi ta bà thế giới = đi lung tung).

 

Tham (P: lobha) = Sự ham muốn quá mức. Ngôn ngữ Phật giáo gọi 3 ý niệm tham, sân, si tam độc vì chúng làm cho con người lẩn quẩn trong vòng buồn phiền, khổ đau.

 

[(Tham đứng đầu trong tam độc, và “thập kết sử” (10 mối ràng buộc xui khiến con người làm bậy); nó còn được liệt vào một trong “ngũ cái” (năm loại tình cảm làm mờ tâm trí).)]

 

Thừa (S&P: yana) = Bánh xe = Đường lối tu hành.

 

– Đại thừa (S: mahàyana): Nguyên nghĩa là “bánh xe lớn” = Phái Phật giáo có kinh điển chép bằng tiếng Sanskrit tư tưởng giáo lý có tính cách phóng khoáng. Phái nầy phát triển về các nước phương Bắc của Ấn nên còn gọi là Bắc Tông.

 

Tiểu thừa (S: hinayana): “Bánh xe nhỏ” = Phật giáo nguyên thủy, hay Nam Tông, truyền bá giáo lý có tính cách nghiêm ngặt trong việc giữ giới răn và cách tu tập, phát triển về các nước phía Nam của Ấn.

 

Thức = Dịch nghĩa của chữ vijnànà (S); hay chữ vinnàna (P) = Sự nhận biết trong tâm.  Theo Nam Tông có lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức). Theo Bắc Tông có bát thức. (ngoài 6 thức bên trên còn có thức thứ 7 là “mạt na thức” (mạt na = dịch âm của chữ “màna” = có nghĩa là truyền đạt, đưa cái biết của năm thức trước vào trong tâm); và thức thứ 8 là “a lại da thức” (S: alaya = gìn giữ hột giống các hành vi cũ), tiếng HV là “tàng thức.”

 

Tứ Diệu đế (S: catvari arya satyāni; P: cattari ariya saccani). Đế (dịch nghĩa của paramartha (S); hay paramattha (P) = Sự thật, “Chơn lý thường hằng và đứng đắn,” tuyệt đối và vĩnh cửu. Tứ Diệu đế = Bốn chơn lý nhiệm mầu trong Chuyển Pháp Luân Kinh. Đó là:

 

Khổ đế. (S: dukka aryasatya; P: dukkha ariya sacca). Dukkha dịch âm là đậu khu và nguyên nghĩa là khổ. Khổ đế = Sự khổ sở của thân & tâm là một sự thật.

 

Tập đế. (S: aryasatya; P: ariya sacca) = Tham ái hay khát ái (ham mê sự luyến thương) là nguồn gốc của khổ, là một sự thật.

 

Diệt đế. (S: nirodha aryasatya; P: nirodha ariya sacca) = Chơn lý tận diệt, tiêu diệt nỗi khổ đau = niết bàn là một chơn lý.

 

Đạo đế hay Bát chánh đạo (S: aryastanga marga; P: ariyo attangiko maggo) = Tám ngành của con đường tu tập để diệt khổ và đến tình trạng yên tỉnh, an lạc của tâm hồn (niết bàn).

 

Bát chánh đạo gồm có:

 

Chánh tri kiến (P: sammà ditthi) = Hiểu biết chơn chánh.

Chánh tư duy (P: sankappa) = Suy nghĩ chơn chánh.

Chánh ngữ (P: vaca) = Lời nói chơn chánh.

Chánh nghiệp (P: kammanta) = Hành động đứng đắn.

Chánh mạng (P: ajiva) = Mưu sanh đứng đắn.

Chánh tinh tấn (P: vayama) = Cố gắng chơn chánh.

Chánh niệm (P: sati) = Tưởng niệm suy tư chơn chánh.

Chánh định (P: samàdhi) = An định chơn chánh.

 

Uẩn (hay Ấm) (S: skandha; P: khandha) = tập hợp có tính cách che mờ.  Thân thể con người là sắc uẩn. Tâm con người gồm 4 uẩn thuộc về tâm linh: thọ (cảm thọ), tưởng (tri giác), hành (tâm trạng), và thức uẩn (hiểu biết).

 

Vô thường (S: anitya; P: anicca) = Tình trạng luôn biến đổ của mọi sự vật. Đây là một trong ba đặc tướng của cõi ta bà: vô thường, khổ hay bất toại nguyện, và vô ngã.

 

Vô ngã (S: anatman; P: anatta) = Không có cái “ta” = Không có cái mà người ta thường nghĩ về chính mình. Theo Phật học, con người luôn nghĩ đến cái “ta,” muốn cho cái “ta” được thế nầy thế nọ, nên sinh ra “khổ.”

 

 

  • NHẬN XÉT

 

1. Trong tiếng Việt số chữ có nguồn gốc Ấn trong giới bình dân quả là quá ít. Điều nầy có thể giải thích được vì dân số gốc India sống ở Việt Nam rất nhỏ để có những giao lưu ngôn ngữ phổ quát.

 

2. Số chữ Việt gốc Ấn thường viết trong văn chương Phật giáo, và do đó trong dân gian, lại rất dồi dào. Đó là vì ảnh hưởng của Phật giáo đã lan rộng trong quần chúng hàng nhiều thế kỷ, từ khi nước Việt thoát khỏi sự đô hộ của người Tàu (thế kỷ thứ 10) cho đến ngày nay.

 

3.Có thể nói những chữ gốc Ấn nầy đều là những chữ Hán Việt dùng trong kinh sách Phật giáo và do đó trong văn chương Việt Nam nói chung.

 

4. Do ảnh hưởng sâu rộng của Phật giáo trong dân chúng, nhiều chữ Việt gốc Ấn (ngang qua giọng đọc HV) đã trở thành những chữ thông dụng trong dân chúng kể cả giới bình dân, và cả trong văn thơ bên ngoài kinh sách Phật giáo.

 

a) Trong văn chương bình dân (ca dao). Chúng ta có một số câu sau đây (4) tuy đơn sơ nhưng diễn đạt vài ý niệm quan trọng trong giáo lý Phật giáo:

 

Chữ duyên:

 

Phải duơn (duyên) áo rách cũng màng

Chẳng phải duơn (duyên) áo nhiễu nút vàng không ham.

 

Thiện ác, nghiệp báo:

 

Đạo trời báo phục chẳng lâu

Hễ mà thiện ác đáo đầu chẳng sai.

Hoặc: Đời xưa quả báo còn chầy

Đời nay quả báo một giây nhãn tiền.

 

Hay là:

 

Lên yên khổ nỗi giục yên

Tiền căn báo hậu nhãn tiền thấy chưa?

 

Và thuyết luân hồi:

 

Em thác ba năm duyên tàn cốt rụi,

Em đầu thai con nhạn bạch về đậu bụi chanh. .

 

Thôi em không giận đó, anh cũng đưng buồn

Kiếp tái sanh sẽ nối phím đàn tri âm.

 

b) Trong văn thơ bác học, không phải văn thơ viết về Phật giáo, những ý niệm bên trên cũng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhà nho Nguyễn Đình Chiểu đã có lần cầu nguyện:

 

Thỉnh ông Phật tổ A Di

Thập phương chư Phật phù trì giúp công. (8)

 

Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp trong bài “Chùa Hương” (5):

 

…Thuyền đi, bến Đục qua

Mỗi lúc gặp người ta

Thẹn thùng em không nói:

Nam mô A Di Đà!.

Mẹ bảo đường còn lâu

Cứ vừa đi ta cầu

Quan Thế Âm Bồ Tát

Là tha hồ đi mau…

Ngun ngút khói hương vàng

Say trong giấc mơ màng

Em cầu xin trời Phật

Sao cho em lấy chàng. (5)

 

Chúng ta cũng có thể tìm thấy những ý niệm liên quan đến Phật giáo trong các tác phẩm sau:

 

Chinh phụ ngâm:

 

Thiếp xin về kiếp sau nầy

Như chim liền cánh như cây liền cành

 

Cung oán ngâm khúc:

 

Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật

Mối thất tình quyết dứt cho xong.

 

Truyện Kiều:

 

Có trời mà cũng có ta

Tu là cội phúc tình là giây oan.

 

 

5. Về các con số trong kinh sách Phật giáo.

 

Trong lúc tìm hiểu những chữ có nguồn gốc Ấn, chúng tôi nhận thấy rằng con số đã trở nên một điểm đáng được lưu ý vì con số đã được dùng rất nhiều để nói lên những ý niệm hay những điều cần nhớ, cần được học hỏi trong giáo lý Phật giáo.

 

Chúng tôi chỉ nêu ra một vài thí dụ với một vài con số mà thôi để thấy tầm quan trọng của các con số.

 

Số 2: có Nhị không: hai sự trống vắng “ngã không” (cái tôi trống không) và “pháp không” (bản thể của muôn pháp đều rỗng không

(theo Bắc Tông); nhị thừa (hai lối tu); v.v.

 

Số 3: Tam bảo (Phật Pháp Tăng); tam bành/tam độc (tham sân si); tam giác (tự giác, giác tha, giác hành); tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới). Và còn có: tam chướng, tam giải thoát môn; . . tam huệ học;

tam luận tông; Tam tạng kinh điển v.v.

 

Số 4: Tứ Diệu đế; tứ ba la di (S: parajika)= 4 tội trọng của tì kheo (dâm, sát sanh, trộm, nói dối); tứ chúng (tỳ kheo, tỳ kheo ni, u bà tắc, u bà di); tứ đại (S: mahàbhùta = đất, nước, lửa, gió); tứ Tất đàn (S: siddham) = thành tựu; tứ tướng (ngã, nhơn, chúng sanh, và thọ giả tướng), và rất nhiều “tứ” khác như tứ Nhiếp pháp; tứ như ý túc; tứ niệm xứ; tứ Phần luật, tứ quả; v.v.

 

Số 6: lục căn; lục trần; lục thức; lục niên khổ hạnh = Sáu năm tu khổ hạnh của tu sĩ Cồ đàm (S: gautama); lục nhập/ lục xứ (S: sadàyatana = sáu căn gặp sáu trần đưa cảm giác vào trong tâm); lục thông (S: abhijnà = sáu thần thông) v.v.

 

Số 8: Bát chánh đạo; bát giới trai (S: upavasatha) = Lễ truyền tám giới cho những người đến chùa tu); bát khổ theo Kinh Pháp Luân mà 4 sự khổ đâu tiên thường được nhắc đến là sanh, già bệnh, chết . . .); bát niết bàn (S: parinirvana; P: parinibbàna = Nhập diệt hay diệt độ = Nhập niết bàn = Sự qua đời của bực thánh thiện, cao tăng); và còn nhiều chữ “bát” khác v.v. Nếu ai học, hiểu và tu tập được tất cả những “con số” nầy thì đã thành công khá xa trên đường “đạo” dẫn đến “niết bàn.”

 

Trong việc học hỏi về sự phát triển của tiếng Việt, ngoài chữ Việt gốc Ấn ra, chúng ta cũng cần tìm hiểu những chữ Việt gốc ngoại quốc khác cho sự hiểu biết được soi sang thêm vì những chữ loại nầy đã trở thành một thành phần của tiếng Việt và của “chữ quốc ngữ” của chúng ta.

 

 

 

Nguyễn Hữu Phước

 

 

_____________________

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

 

Sách:

  1. Đào Duy Anh (1957). Hán Việt từ điển, Nxb Trường thi, Sài gòn, VN.
  2. Huỳnh Hữu Hồng (Thiện Nhựt) (2005). Tiểu từ điển Phật học thông dụng. Tác giả xb, Montreal, Canada.
  3. Huỳnh Hữu Hồng (Thiện Nhựt) (2002). Tìm Hiểu Tâm kinh bát nhã ba la mật. Tác giả xb. Montreal Canada.
  4. Minh Hương (1962 ?) . Hoa đồng cỏ nội. Nxb Xuân Thu, Los Alamitos, California.
  5. Nguyễn Hoài Thương (1993). Thơ tình chọn lọc. Nxb Khai Trí, Westminster, CA.
  6. Lê Ngọc Trụ (1993). Tầm nguyên tự điển Việt Nam. Nxb TP Hồ Chí Minh, VN.
  7. Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970). Việt Nam tự điển. Nxb Khai Trí, Saigon VN.
  8. Thái Văn Kiểm (2006). “Ảnh hưởng Phật giáo trên văn học, khoa học và kỹ thuật Việt Nam.” Tuyển tập Nhớ Huế, số 17. Nxb Tuyển tập Nhớ Huế Westminster, California.

 

Tư liệu:

 

Đạo hữu Thiện Nhựt Huỳnh Hữu Hồng đã giải thích thêm nhiều chữ dùng trong quyển “Tiểu từ điển Phật học…” giúp chúng tôi ghi chép học hỏi thêm qua các điện đàm.

 

Bạn già Vo Cao của web site “Chợ trời chữ nghĩa,” đã sự góp ý về một số chữ Việt gốc India qua email.

 

Thầy Lê Văn Lân, góp ý trong phần Một chút lịch sử.  Thầy thảo ra và email đến chúng tôi.

 

Chữ Việt Gốc Ấn Độ Liên Quan Đến Phật Giáo – Nguyễn Hữu Phước

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *