Thế nào là Tiếng Vẹm? Thế nào là chữ Vẹm?
.
Chữ Vẹm cũng thế, cũng là chữ Việt. Nhưng vì nó là chữ của Vẹm đặt ra Không Đúng Cách, Không Theo Một Nguyên Tắc Hay Quy Luật Nào Cả, nhiều chữ đọc lên, nghe rất ngô nghê và tức cười, nên ta gọi nó là chữ Vẹm.
.
Với chủ trương “cải hoá,” “nôm hóa” ngôn ngữ Việt, cầm quyền Việt cộng đã lạm dụng nhiều chữ thuần Việt quá mức, trở thành thô tục như:
.
“Xưởng đẻ” Việt cộng đã từng dùng thay cho “nhà bảo sanh,” “nhà ỉa” dùng thay cho nhà “vệ sinh,” hay “linh thuỷ đánh bộ” dùng thay cho “thuỷ quân lục chiến…” và đặt ra nhiều chữ sai hẳn với nguyên nghĩa.
.
Việt cộng đã tạo ra một số chữ khác thường mà ta gọi là chữ Vẹm, có thể vì những lý do sau:
.
1) Việt cộng muốn tiêu hủy tất cả những gì mà chúng gọi là “tàn dư của Mỹ Ngụy.”
.
Thực vậy, ngay sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, việc đầu tiên mà Việt cộng làm, là bắt dân chúng phải tiêu huỷ tất cả các văn hoá phẩm của miền Nam như sách báo, phim ảnh, băng nhạc ” đồi trụy” “phản động.” Do đó, một số chữ của người Việt Quốc Gia miền Nam dùng, dù hay ho, lịch sự tới đâu, chúng cũng muốn xoá bỏ, không dùng đến.
.
Thí dụ nơi để chúng ta bài tiết ra ngoài (tiểu tiện hoặc đại tiện), xưa người Bắc gọi là nhà xí, người Nam gọi là nhà cầu. Hai tiếng này nghe không được lịch sự cho lắm nên đã được chúng ta đổi là nhà vệ sinh. Ấy vậy mà chỉ vì muốn khác người, bọn cán cộng vô học đã bỏ đi và thay thế bằng hai chữ nhà ỉa.
.
Phải chăng đà tiến hoá theo chủ nghĩa xã hội của Việt cộng là như vậy? Chẳng trách dân Việt Nam nay được bọn chúng cai trị, được bọn chúng “giải phóng” đã mỗi ngày một khổ cực, mỗi ngày một ngu si, dốt nát.
.
2) Việt cộng muốn chữ của chúng dùng phải khác chữ miền Nam chúng ta dùng.
.
Việt cộng, chúng chỉ muốn chữ chúng dùng phải khác người, hay nói cho đúng hơn, là khác chữ của người Việt Quốc Gia dùng mà thôi, chứ không phải chúng muốn “thoát ly tiếng Hán Việt” như đã từng tuyên truyền một thời gian sau 1975.
.
Điều này đối với Việt cộng rất quan trọng, nhất là trong thời chiến, vì giúp cho chúng dễ phân biệt người đang sống tại vùng chúng đang kiểm soát với những người đang sống ngoài vùng chúng kiểm soát, để chúng dễ khám phá ra những thành phần mà chúng cho là gián điệp, phản động.
.
Vì vậy, chữ chúng đặt ra hay dịch ra loại chữ mới mà không cần biết là Hán hay Nôm, thanh hay tục, trong sáng hay tối tăm, xuôi hay ngược, đúng hay sai. Có chữ đang là chữ Hán Việt, chúng đổi sang chữ Nôm. Có chữ đang là chữ Nôm, chúng đổi sang chữ Hán Việt. Chúng chẳng theo một nguyên tắc hay quy luật nào cả.
.
Thí dụ:
.
Chúng ta nói là “phát ngôn viên” thì vẹm nói là “người phát ngôn.”
Chúng ta “mượn tờ báo để đọc” thì vẹm nói là “trao đổi văn hóa.”
Chúng ta nói là “nhà bảo sanh” thì vẹm từng nói là “xưởng đẻ.”
Chúng ta nói là “thăm viếng” thì vẹm nói là “tham quan.”
Chúng ta nói là “ghi danh” thì vẹm nói là “đăng ký.”
Chúng ta nói là “đá bóng” thì vẹm nói là “bóng đá.”
Chúng ta nói là “yếu điểm” thì vẹm nói là “điểm yếu.”
Chúng ta nói là “trở ngại” thì vẹm nói là “sự cố.”
Chúng ta nói là “xuất cảng” thì vẹm nói là “xuất khẩu.”
Chúng ta nói là “liên lạc” thì vẹm nói là “liên hệ.”
Chúng ta nói là “đồng ý” thì vẹm nói là “nhất trí.”
Chúng ta nói là “lo ngại” thì vẹm nói là “quan ngại.”
Chúng ta nói là “hiểu rõ” thì vẹm nói là quán triệt.”
Chúng ta nói là “chỉ tiêu” thì vẹm nói là “tiêu chí.”
Chúng ta nói là “viên chức” thì nói nói là “quan chức.”
Chúng ta nói là “chuyển âm” thi vẹm nói là “lồng tiếng.”
Chúng ta nói là “dẫn giải” thì vẹm nói là “thuyết minh.”
Chúng ta nói là “mìn nổ chậm” thì vẹm nói “bom hẹn giờ.”
Chúng ta nói là “xe hơi” thì vẹm nói là “ô tô con.”
Chúng ta nói là “Quan thuế” thì vẹm nói là “Hải quan.”
(Hải…) được vẹm gọi chung cho cả sân bay, bến tàu và cửa khẩu đường bộ
Chúng ta nói là “máy phát thanh” hay (Radio) thì vẹm nói là “Đài.”
.
Sau ngày 30 /4/1975 Bộ đội nào cũng muốn mua một cái “Đài” để mang về Bắc. Tiếc rằng ở Sài Gòn chỉ có mỗi một cái Đài Phát Thanh duy nhất.
Chúng ta nói là “Trực thăng” thì vẹm nói là “máy bay lên thẳng.” Thế thì máy bay phản lực lên thẳng ngày nay, vertical take-off and landing (VTOL), cũng bay lên thẳng, thì vẹm sẽ gọi là gì để phân biệt..?
.
Vì ngu dốt, nên khi vẹm đảo ngược hay thay thế bằng một chữ khác mà chúng chẳng biết và cũng chẳng cần biết là đúng hay sai nữa hoặc lẫn lộn ý nghĩa của chữ này với ý nghĩa của chữ kia chúng cũng không rõ.
.
Thí dụ 1:
.
Chữ “đơn giản” mà đọc ngược lại là “giản đơn” hay “vui buồn” đọc ngược lại là “buồn vui” tuy nghe có hơi lạ tai một chút, còn có thể chấp nhận được vì nghĩa của nó không khác nhau.
.
Nhưng chữ “yếu điểm” mà sửa lại là “điểm yếu” thì không thể chấp nhận được vì nghĩa nó khác hẳn.
Nhưng vì dốt nát, vẹm vẫn cố tình dùng chữ “điểm yếu” thay thế cho chữ “yếu điểm.”
Chúng ta biết, về văn phạm, chữ Hán giống chữ Anh ở một điểm là tĩnh từ luôn luôn đứng trước danh từ nên con ngựa trắng, người Anh gọi là white horse và người Tầu gọi là bạch mã.
Chữ yếu điểm cũng vậy, yếu là tĩnh từ và có nghĩa là quan trọng, yếu điểm là điểm quan trọng.
Nhưng vì ngu dốt, Việt cộng chỉ muốn nói khác với chúng ta nên nói ngược lại là điểm yếu và tưởng rằng chúng đã nôm hoá được chữ yếu điểm là chữ Hán.
.
Thế còn nhược điểm thì sao? Nếu nói ngược lại thì điểm nhược là nghĩa gì?
Vì ngu dốt lại nhưng hay nói chữ. Vì vậy mà ngày nay, nhiều nhà giáo Việt cộng đào tạo vẫn “hiểu” yếu điểm là điểm yếu và dậy lại học trò như vậy.
.
Trò chuyện qua “Yahoo Messenger” với một em học sinh hiện ở Sài Gòn:
.
Thay vì dạy em nói “con người đó có tính nhân bản” thì giáo viên dạy em rằng “con người đó có tính nhân văn”
.
Thí dụ 2:
.
Chúng ta nói:
.
“Xin các bạn cô gắng nhanh lên một chút vì tình trạng gấp rút, cấp bách lắm rồi.”
.
Thì vẹm lại nói:
.
“Xin các đồng chí tranh thủ, khẩn trương vì tình trạng khẩn trương rồi.”
.
Chúng ta dùng chữ “cố gắng” cho mệnh đề thứ nhất và chữ “gấp rút” cho mệnh đề thứ hai vì hai chữ này có ý nghĩa khác nhau. Nhưng đối với chúng thì cố gắng cũng là “khẩn trương” và gấp rút cũng là “khẩn trương.”
.
Thí dụ 3:
.
Sau khi tham dự một buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, nếu là chúng ta, chúng ta sẽ hỏi người tham dự:
.
“Xin anh cho biết cảm tưởng (cảm nghĩ) của anh sau khi nghe xong buổi nói chuyện này.”
.
Nhưng nếu người hỏi là một văn nô Việt cộng, thì chắc chắn hắn sẽ hỏi người tham dự:
.
“Xin đồng chí cho biết cảm giác của đồng chí sau khi nghe xong buổi nói chuyện này.”
.
Đây chỉ là buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, đâu có phải là một buổi vật lộn, đấu đá ghê gớm gì mà hỏi cảm giác?
.
Nhiều khi chúng ghép hai ba chữ kép làm một khiến người đọc chẳng hiểu mô tê gì cả hoặc một chữ đã đầy đủ ý nghĩa rồi, chúng lại thêm một chữ nữa khiến chữ mới trở nên kỳ cục.
.
Thí dụ:
.
Hùng vĩ và hiểm trở, vẹm ghép thành “Hùng hiểm.”
Tương đương và thích hợp vẹm ghép thành “Tương thích.”
Quan tâm và lo ngại vẹm ghép thành “Quan ngại.”
Tối ưu chẳng lẽ vẹm đổi thành Ưu tối? Nên chúng thêm chữ “nhất” thành “tối ưu nhất.” Thật lạ lùng ! Đã tối ưu rồi đâu cần phải thêm chữ nhất vào làm gì?
.
3) Để bóp méo và xuyên tạc Lịch sử VN như:
.
Việt minh dùng vũ lực, súng đạn để cướp chính quyền hợp pháp chính phủ Trần Trọng Kim thì vẹm gọi là “Cách Mạng Tháng 8 năm 1945.”
.
Cờ Vàng là cờ Truyền thống của Dân Tộc có từ bao đời thì vẹm nói là Cờ 3 que, Cờ Ngụy.
.
Cờ đỏ sao vàng, gốc là của tỉnh Phúc kiến, Trung cộng hiện nay vẹm dùng thì vẹm gọi là “Cờ tổ quốc.”
.
4) Không những chúng thay đổi CHỮ, chúng còn thay đổi cả NGHĨA.
.
Thí dụ:
.
Gài mìn, pháo kích vào trường học, nhà dân, bắt cóc, thủ tiêu, khủng bố, vẹm gọi là “hoạt động cách mạng.”
Để cướp chính quyền bằng vũ lực súng đạn, vẹm gọi là “giải phóng nhân dân.”
Để cướp đất đai của các điền chủ, vẹm gọi là “Cải cách ruộng đất.”
Để bao che Đảng viên, cán bộ tham nhũng hối lộ thì vẹm gọi là “đi đêm,” “móc ngoặc,” “có quan hệ xấu,” “có hành vi tiêu cực” để giảm án hoặc tha tội.
Đề chìm xuồng, xóa án thì vẹm nói “Đang trong vòng điều tra.”
.
Muốn cướp tài sản của các thương gia, vẹm gọi là “Đánh tư sản mại bản.”
.
Cấm người dân buôn bán, vẹm gọi là “Cải tạo thương nghiệp.”
.
Muốn trả thù quân nhân, công chức của chế độ cũ, vẹm gọi là “Học tập Cải tạo.”
.
Xe hơi (ôtô con) chạy xăng thì chuyển ngược chạy bằng than thì vẹm gọi là “Cải Tiến.”
.
Người dân Vượt biên khi bị bắt thì vẹm gọi là “thằng phạm, con phạm…”
.
Người dân Vượt biên nếu thoát thì vẹm âu yếm gọi là Kiều bào, “Khúc ruột ngàn dặm.”
.
Để cướp đất dân oan, vẹm gọi là “Khu quy hoạch.”
.
Đập phá nhà dân oan, vẹm gọi là “giải phóng mặt bằng.”
.
Để sống sót, vẹm phải chuyển sang nền kinh tế tư bản thì vẹm gọi là “Đổi mới.”
.
Để biến dạng thành Tư bản Đỏ bóc lột nhân dân thì vẹm gọi là “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.”
.
Sách báo bàn luận giải thích về Dân chủ, tự do thì vẹm gọi là tài liệu phản động, công cụ khủng bố.
.
Muốn bỏ tù người tranh đấu cho tự do, dân chủ, vẹm gọi là phản động, có âm mưu lật đổ chính quyền.
.
Để điều tra và có thể tống giam, vẹm gọi là “Giấy mời.”
.
Biểu tình chống Trung cộng xâm lược thì vẹm nói là “có sai phạm về tư tưởng và nhận thức chính trị.”
.
Biểu hiện lòng yêu nước thì vẹm nói là “kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước anh em.”
.
Trung cộng xâm lược biên giới Việt Trung thì vẹm chỉ gọi duy nhất 2 chữ là “kẻ địch.”
.
Tàu Trung cộng bắn giết ngư dân ta thì vẹm gọi là “Tàu lạ tấn công,” “Ngư dân bị tàu lạ bắn chết…”
.
Thay vì lên tiếng (phản đối) Trung cộng, thì vẹm lại dùng chữ (quan hệ) để giải quyết.
.
Tưởng niệm các chiến sỹ bị Hải quân Trung cộng sát hại, khi in trên báo vẹm gọi Hải quân Trung cộng là “Hải Quân Nước Ngoài.”
.
Và còn nhiều không thể kể ra hết những chuyện sau 1975 cho đến hôm nay…
.
Để tạm kết thúc cho bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau nhìn lại nền Văn hóa Vẹm, ngôn ngữ Vẹm ngày nay đang tiến bao xa, qua những hình dẫn chứng dưới đây:
.
.
(… NẤU BÁNH CHƯNG, GIÃ BÁNH DÀY )
.
.
HCM chưa bao giờ là Danh nhân Văn Hóa Thế Giới như VC tuyên truyền
Thay vì in là DANH NHÂN để tuyên truyền lừa gạt, thì VC in sai là DOANH NHÂN.
.
Tóm lại, ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) là phương cách để con người giao tiếp, thông tin với nhau, hoặc diễn đạt tư tưởng của mình cho người khác biết. Ngôn ngữ cũng là một phần của văn hoá, là linh hồn của một dân tộc. Trải qua thời gian và không gian, ngôn ngữ không ít, nhiều đã phải thay đổi để cho phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và đà tiến hoá của xã hội.
.
Những tác phẩm văn học, thơ ca, những bài hát, tranh tượng, hình ảnh nghệ thuật, của miền Nam trước 1975 một thời đã từng bị xé nát, đốt sạch trong chiến dịch bài trừ “Văn Hóa Đồi Trụy” của Việt cộng năm xưa. Ngày nay vẫn đang là những sách hiếm, quý trong tủ sách của những người dân Việt có tư duy, trình độ văn hóa, nhận thức.
.
Việc thay đổi chữ cũ vì thô tục, vì thiếu nghĩa, vì không trong sáng, tạo lập thêm chữ mới để thay thế những chữ cũ không còn hợp thời hay không có, là một việc nên làm và còn là một trách nhiệm để làm phong phú cho chữ Quốc ngữ.
.
Nhưng nếu chỉ vì mục đích chính trị ngông cuồng, tự đại, hay chỉ vì lòng tự ty mặc cảm ngu dốt muốn che đậy sự tụt hậu của hệ thống văn hóa, giáo dục hiện nay mà Việt cộng thay đổi từ ngữ một cách nhố nhăng, vô tội vạ, làm cho chữ Việt trong nước ngày nay càng trở nên thô tục, kỳ cục hoặc tối tăm, sai lạc ý nghĩa, thì đó không những là một điều sai lầm mà còn có tội ác đối với dân tộc.
.
Nguồn:
http://vietnamsaigon75.blogspot.com/2012/09/lich-su-chu-quoc-ngu.html
Trần Văn Giang (St)