Đọc bài thơ “Nguyên tiêu” của Hồ Chí Minh
.
Thưa quý vị,
.
Tình cờ tôi bắt gặp trên mạng một cái tựa đề thật bắt mắt “100 Bài Thơ Hay Nhất Thế Kỷ 20” vừa mới được công bố tại Quốc Tử Giám Hà Nội nhân ngày thơ Việt Nam 2007.
.
Nên biết thêm, “Quốc Tử Giám” (còn gọi là Văn Miếu), không những là một di tích lịch sử và văn hoá cổ kính của Việt Nam mà còn là một trường đại học cổ đầu tiên ở vùng Đông Nam Á, được xây dựng từ năm Canh Tuất 1070 (đời vua Lý Thánh Tông) tại kinh thành Thăng Long. Ngày nay, chính quyền Hà Nội đã lập tại đây “Trung tâm hoạt động văn hoá – khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám” để ngoài việc phát huy tác dụng của di tích còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hoá, khoa học đậm đà bản sắc dân tộc của thủ đô Hà Nội (!)
.
Cái cơ sở oai nghi như vậy đã đúc kết danh sách 100 bài thơ hay, mà lại hay nhất của thế kỷ 20 mới ly kỳ, tất phải là chuyện đứng đắn. Thật vẻ vang cho những thi nhân có bài thơ được tuyển chọn vào danh sách “cấp cao” này. Tuy nhiên, khi nhìn vào danh sách này, bài đứng hạng số 1 (number ONE) là bài “Nguyên Tiêu” (có nghĩa là “Rằm tháng Giêng”) tác giả là Hồ Chí Minh (?) Tôi vốn dĩ bị dị ứng với cái tên HCM; và mỗi lần thấy cái tên này ở đâu là tôi chẳng đặng đừng nghĩ ngay đến câu nói bất hủ, chân lý muôn thuở “… hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm”; Tôi đã phải dành một chút thì giở để… “nhìn kỹ những gì cộng sản làm.” Kết quả mà tôi thu lượm được cũng thú vị không kém. Tôi kính trình sau đây để quý vị có máu thơ thẩn trong người thưởng lãm.
.
Nhân tiện đây, tôi cũng mạn phép nói trước là khi các bác đọc các dòng chữ viết ở phía dưới đây có nhiều Hán(g) tự, thì xin các bác hiểu là trình độ chữ Hán của tôi nếu gọi là “ăn đong” thì cũng còn quá đáng! Nó còn tệ hại hơn thế nữa! Trình độ của tôi chưa qua hết trang đầu của sách “Tam thiên tự” (“Thiên là trời; Địa là đất; Tồn là còn…!”) Mặc dù là tôi đã có cái may mắn được chính phủ VNCH gởi đi tu nghiệp ở Đài Loan (năm 1974). Tôi đã vội vã học cấp tốc một ít chữ Hán để sinh tồn (gọi là “Survival Chinese”) trong một thời gian ngắn cấp bách trước khi xuất dương. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi vào lúc đó (1974), vẽ (chỉ biết vẽ chứ không biết viết!) được khỏang gần 300 mặt chữ Hán và xem như tạm đủ để đi ra chợ tầu (cũng nên biết trong giờ học ở Đài Loan, thầy giáo chỉ dậy bằng Anh ngữ thôi! No Chino por favor!) mua “bánh tiu,” “dầu cháo quẩy,” “xì dầu,” “hủ tíu…” Ngoài giờ học, nếu tôi có dạo phố buổi chiều để “thăm dân tầu cho biết sự tình”; hoặc vào buổi tối tham gia các “chương trình trao đổi văn hóa” (hoàn toàn không phải để trả thù trả hận dân tộc gì cả!) với các thím xẩm thơ mộng; hoặc thỉnh thoảng đánh “cầu lông”; hoặc vật tự do với các thím trong các “tea house” (“phòng trà”) thì tôi cũng chỉ dùng “sức lao động” nhiều hơn là “coỏng!” Nói cách khác là dùng “tay chân đỡ cho mồm miệng!” Nhìn lại đã 33-34 đã năm trôi qua rồi còn gì! Ngay đến công phu võ nghệ mà không luyện tập một vài tháng thôi đã mai một rồi, nói chi đến 33-34 năm ròng! Nhưng cũng còn may là bác “Biu Gết” (Bill Gates) của đế quốc tư bản làm ra cái “Uynh đô” (Windows) có sẵn “khả năng” “Cắt và Dán” (“Cut and Paste”). Thế là tôi cứ ngồi gãi… trán, tà tà “cắt và dán” cho thành bài ra này. Thế mà quý vị xem thoáng qua cũng khó mà biết là thật hay giả; kỳ công hay là “chôm chỉa” đấy nhỉ.
.
Trước tiên, quý vị và tôi hãy cùng nhau đọc bài “Nguyên Tiêu” cái đã:
.
元宵
今夜元宵月正圓
春江春水接春天
煙波深處談軍事
夜半歸來月滿船
.
Nguyên tiêu
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
(Hồ Chí Minh – 1948)
.
Rằm tháng riêng
(Người dịch: Văn nô Xuân Thủy)
Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
.
Bản dịch nôm của Thiềng Đức
Tháng giêng trăng sáng tỏ đêm rằm
Sông nước trời khuya lộng sắc xuân
Trên sóng mờ sương bàn chiến sự
Đêm tàn thuyền ngập trăng trong ngần.
.
Bản dịch nôm của Hoàng Tâm
Trăng sáng vừa tròn rằm tháng giêng,
Trời xuân lồng lộng nước sông in.
Nơi quân bàn bạc dầy sương khói,
Vừa lúc nửa đêm trăng ngợp thuyền.
.
Nếu chỉ đọc bài thơ “Đường” thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán ở trên thôi, đừng nhìn vào tên tác giả (HCM), quý vị nhận thấy ngay từ cách dùng chữ cho đến âm hưởng hình như là của một thi sĩ Trung hoa đời “Đường” như Lý Bạch, Đỗ Mục, Lý Thương Ẩn… nào đó, thật là tuyệt vời! Bây giờ thử mở một lô Đường thi ra đọc lại xem sao! Voilà! Đường mật đâu chưa thấy, tôi đã khám phá ra một hũ tương thối… sau khi đã “nhìn kỹ những gì cộng sản làm!”
.
À há! Bác đã “đỡ nhẹ” ý tất cả 4 câu của 4 thi sĩ khác nhau thành ra bài “number ONE” của Bác! Nếu Bác chịu khó khiêm nhường một tí (hình như bộ phận “khiêm nhường” trong người Bác đã được gỡ ra lâu lắm rồi thì phải!?) Bác cứ việc thong thả đề vào xuất xứ (hoặc đề là “lấy ý”) của từng câu, thì bài này không có vấn đề; tuy nhiên Bác cứ im lim lỉm – tương tự như các bài khác mà Bác đã từng “chôm” nguyên văn (ví dụ như việc “chôm” một số bài, có người nói là Bác “chôm” nguyên con cả tập – xin đọc thêm các bài sưu khảo của các ông Đặng Tiến và GS Lê Hữu Mục, trong tập thơ “Nhật ký trong tù” – “Ngục Trung Nhật Ký”- của một người bạn tù khác bị nhốt chung vời Bác ở Quảng tây (?) Trung Hoa năm 1942-43 (?) – rồi để tên mình vào tỉnh bơ con sáo sậu!!!
.
Quỷnh nhất là các cháu “đỉnh cao trí tuệ” XHCN của Bác đã quá mau mắn nâng bi Bác triệt để trong việc xếp hạng bài thơ “của” Bác đứng đầu (lại “number One!”) trong danh sách 100 bài thơ “hay nhất” của thế kỷ 20 (?)
.
Xin tất cả các bác “Quốc tử giám” cho tôi nhờ tí!!!
.
Xem ra, “Người / Bác” đã “chôm” ý của từng câu một, lần lượt như sau:
.
Câu 1: Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên,
(trích từ bài “Ngư ca tử kỳ 5” của Trương Chí Hòa [xem Bài 1 ở dưới])
Câu 2: Nguyệt quang như thủy thủy như thiên
(trích từ bài “Giang lâu thư hoài” của Triệu Hổ [xem Bài 2 ở dưới])
Câu 3: Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
(trích từ bài “Thú nhàn” của Cao Bá Quát [xem Bài 3 ở dưới])
Câu 4: Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
(trích từ bài “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế [xem Bài 4 ở dưới])
.
Tôi xin chép lại 4 câu bị “chôm” ở trên một lần nữa vào thành một bài (có cái tựa mới toanh mà cháu vừa mới “chôm” lại của Bác!) để các bác dễ đọc:
.
Tiêu nguyên
Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên,
Nguyệt quang như thủy thủy như thiên
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
.
Đồng thời xin các bác nhìn lại bài “Nguyên tiêu” của “Người” mà so sánh:
Nguyên tiêu
.
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
.
Tiện đây, tôi xin mời đồng chí “xưng thỉ” (Xuân Thủy) văn hay chữ tốt (nếu còn sống; hay hậu duệ của đồng chí cũng đặng!) dịch nôm lại 4 câu bị “chôm” mà tôi vừa mới gom lại ở trên xem “nó ra nàm thao!”
.
Sau đây, tôi xin mạn phép “cắt và dán” lại từng bài “o-ri-gin” (origin / nguyên thủy) một (gồm cả bản chữ Hán và bản dịch nôm) của mỗi tác gỉa để các quý vị thơ thẩn rộng đường tham luận:
.
Bài 1- Ngư ca tử kỳ 5 – 漁歌子其五
(của Trương Chí Hoà – Thi sĩ Trung Hoa)
漁歌子其五
青草湖中月正圓,
巴陵漁父棹歌連。
釣車子,
橛頭船,
樂在風波不用仙。
.
Ngư ca tử kỳ 5
Thanh thảo hồ trung nguyệt chính viên,
Ba Lăng ngư phủ trạo ca liên.
Điếu xa tử,
Quyết đầu thuyền,
Lạc tại phong ba bất dụng tiên.
.
Ngư ca tử kỳ 5
(Người dịch: Điệp Luyến Hoa)
.
Hồ trong cỏ mượt bóng trăng đầy,
Ngư phủ Ba Lăng tiếng hát say.
Thuyền đầu nhọn,
Cần chắc tay.
Chẳng tiên, sóng gió cũng vui vầy.
.
Bài 2 – Giang lâu thư hoài
(Triệu Hổ – 趙嘏 – Thi sĩ Trung Hoa)
江棲書懷
獨上江棲思悄然
月光如水水如天
同來玩月人何在
風景依稀似去年
.
Giang lâu thư hoài
Ðộc thướng giang lâu tứ tiễu nhiên
Nguyệt quang như thủy thủy như thiên
Ðồng lai ngoạn nguyệt nhân hà tại
Phong cảnh y hi tự khứ niên.
.
Viết lại cảm nghĩ ở lầu bên sông
(Người dịch: Lý Tứ)
Hoài cảm lên lầu đứng lẻ loi
Sông lồng trăng sáng nước như trời
Người cùng thưởng nguyệt nay đâu nhỉ
Cảnh cũ năm xưa chẳng đổi dời.
.
Bản dịch nôm của Tản Đà
Lên gác bên sông một ngậm ngùi,
Sáng trăng như nước, nước như trời.
Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?
Trăng nước như xưa chín với mười.
.
Bài 3- Phong Kiều Dạ Bạc
(của Trương Kế – 張繼 – Thi sĩ Trung Hoa)
楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天,
江楓漁火對愁眠。
姑蘇城外寒山寺,
夜半鐘聲到客船。
.
Phong Kiều dạ bạc
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
.
Nửa đêm đậu bến Phong Kiều
(Người dịch: Hạt Cát)
Quạ kêu sương lạnh trăng tà.
Đèn chài giấc muộn la đà bến sông.
Chùa Hàn trầm bổng hồi chuông.
Nửa đêm gọi khách bềnh bồng Cô Tô.
.
Bài 4 – Thú nhàn
(của thi Sĩ Cao Bá Quát)
.
Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu ngư châu
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Ðem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt
Duy giang thượng chi thanh phong,
dữ sơn gian chi minh nguyệt
Kho trời chung, mà vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Kẻ thành thị kẻ vui miền lâm tẩu
Gõ nhịp lấy, đọc câu ”Tương Tiến Tửu”
“Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy
thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi”
Làm chi cho mệt một đời.
.
Lời kết
.
Thiệt hết ý kiến! Ban tuyển lựa của “Quốc tử giám” chắc chắn phải gồm những cây cổ thụ của nền thi văn Hà thành làm sao có thể họ lại không nhìn thấy những sự “chôm chỉa” giữa ban ngày ban mặt này! Lại đem bài này ra ánh sáng để thi nhân bêu riếu “Boác!” Hay là các bác “cuốc tử dám” này vì mải “liên hoan” quá chừng quá độ, ăn nhằm phải một mẻ “lông lợn rừng” thành ra bị lú lẫn cả lũ rồi? Chỉ có giời mới biết!
.
Nhưng phải công nhận một điều là Boác HCM “vô vàn kính yêu” thật “kiệt xuất” tài tình đã phát minh ra cái thuật “Cắt và Dán” tạm gọi là “Uynh đô 48” (1948). Cho mãi đến khoảng gần 40 năm sau, vào đầu thập niên ‘90 bác “Biu Gết” mới làm ra “Uynh đô 95” (1995) với cùng kỹ thuật “Cắt và Dán.” Bác “Biu” đã hốt bạc (tỷ) nhờ cái “Uynh đô” này. Bác “Biu” nay đã là người giầu nhất thế giới rồi. Nếu biết điều một tí thì bác “Biu” nên trả lệ phí (“royalty”) cho hậu duệ của Boác HCM (đảng CSVN); tượng trưng vài tỷ đô la cũng được rồi! Ít hay nhiều thì cũng đỡ khổ cho dân tộc Việt Nam; có nó ($$$), các bác lãnh đạo nhà nước Việt Nam anh hùng đỡ phải xếp hàng sang “rước Mĩ kíu nước!” cho toát mồ hôi… trán.
.
Trần Văn Giang
viết ngày 02/20/2008