Chuyện “Ăn”
.
Kính Thưa Quý vị,
Chỉ mới đọc qua cái tựa đề, Có lẽ là một số đông quý vị đã phải cau mày phán rằng: “Trong cái trang nhà tràn đầy những áng văn thơ mộng về tình quê-hương, tình đầu, tình cuối, tình giữa, tình dang dở, tình muộn; những suy tư, những hẹn hò, những sưu tầm, khảo cứu tuyệt vời về khoa học, y tế, văn học nghệ thuật và phong tục tập quán… này sao lại “chêm” cái bài có tựa đề phàm tục như thế này? Trang nhà mà lại có mùi (thức ăn) thì còn ra thể thống gì nữa?”
Nhà cháu trước khi gởi xin đăng bài “Chuyện Ăn” này cũng đã đắn đo rất nhiều. Số là cách đây không lâu, nhà cháu sau khi cãi vã ỏm tỏi với người tình “chân không rung” – Xin lỗi vì run quá nhà cháu nói lẫn – xin nói lại là: sau khi cãi vã ỏm tỏi với người tình “không chân dung,” nhà cháu ngồi nặn hết tim óc ra viết được một bài thơ về mối tình tan vỡ rất ư là mùi mẫn. Nhà cháu rất đắc ý với bài thơ này, và tự ý so sánh thấy nó không thua kém gì bài “Hai sắc Hoa Ti Gôn” của TTKH !!! Nhà cháu liền vội vàng gởi xin đăng trên một tờ nhật báo có tên tuổi ở phố “Saigon Nhỏ.” Nhà cháu sốt ruột chờ xin một tờ báo ngay tại trước chợ Việt Nam khi báo vừa mới phát hành cho không, mại dô miễn phí! Mở tờ báo ra, nhà cháu đau điếng vì tờ báo “ác ôn” đó đã in bài thơ đau khổ đầy nước mắt của nhà cháu ở ngay giữa hai cái quảng cáo tìm chó lạc, mèo lạc, bên trên một cái quảng cáo thuốc gia truyền trị bệnh “Đái đường,” bên dưới một cái quảng cáo khác về chữa trị “Bệnh trĩ.” Tờ báo “khốn lịn” này đã vô tình “giết” thi hứng của một thi sĩ “tên tuổi.” Nhà cháu quặu quá, văng tiếng “Đan Mạch” tứ tung !
Khỏi phải nói them cho tốn giấy mực, kể từ sau hôm đó thi hứng cuả nhà cháu “tịt” hẳn. Nhà cháu mới chuyển sang viết văn. Như đã nói rồi, nhà cháu không hiểu quý vị có rộng lượng hơn tờ báo thương mại tham tiền quảng cáo kia hay không? Hay quý vị cũng lại cho văn của nhà cháu có giá trị như một cái quảng cáo tìm chó đi lạc.
Nhà cháu chỉ xin quý vị rộng lượng một chút để nhà cháu có đủ can đảm trình bày caí kích thước bốn chiều (4-D) của chữ “Ăn” này.
Nhà văn Chu-Tử khi kết thúc cuốn chuyện YÊU đã viết một câu xanh rờn là:
“Tất cả chỉ là giả, chỉ có tình yêu là thật.”
Xin thưa là nhà cháu không biết “quê” là gì bởi lẽ bộ phận “quê” trong người của nhà cháu đã được tháo gỡ ra từ khuya rồi! Nhà cháu chẳng có e thẹn gì cả, “chôm” luôn câu nói bất hủ đó rồi cạo sửa lại là:
“Tất cả chỉ là GIẢ, chỉ có ĂN mới là THỰC.”
Nhà cháu chưa kip cạo sửa xong thì đã nghe một cụ cao niên nào đó gắt:
– Ăn với uống thì có liên quan gì đến THỰC hay GIẢ. Sao lại cạo sửa văn của người khác một cách bần tiện như thế?”
Dạ thưa “nhân chi sơ tính bần tiện” và nhà cháu không phải là một ngoại lệ. Văn của nhà cháu còn đầy lỗi chính tả, nhưng nhà cháu “nói có sách, mách có chứng” quý vị ạ.
Thưa qúy vị.
“Thực” đây là tình cờ vào một buổi đẹp trời nào đó, quý vị đi ngang dẫy hàng ăn ở trong khu thương xá “Phước Lộc Thọ,” quý vị thấy người yêu thơ mộng của quý vị đang ngồi rung đùi, thong thả xơi một tô bún ốc “xe lửa” bốc khói nghi ngút. Nếu quý vị không phải vội vã, đi vòng trở lại một lát sau đó, quý vị sẽ thấy người em yêu dấu của cụ còn “tráng miệng” thêm một vỉ “gỏi cuốn” nữa.
“Giả” đây là sau khi đi “dung dăng dung dẻ” với người yêu cũng ở khu vực “Phước Lộc Thọ” quanh đó, rồi tạt vào cũng ngay cái quán ăn hôm nọ. Người yêu thơ mộng của quý vị không ăn hết một “vắt” mì nhỏ!
Như vậy theo suy luận phóng đại của nhà cháu là:
“Khi ĂN, con người mới thực là con người.”
Nhà cháu muốn nói là ĂN một mình, khi không có người yêu kia kìa. Người xưa có câu “Người sao thì chiêm bao vậy.” Nhà cháu thấy hình như vẫn chưa đủ. Nhà cháu cần phải thêm một câu nói của các cụ Tây phương là “Ăn là người (You are what you eat).” Ngay chính các cụ nhà mình cũng phải đồng ý là “Có thực mới vực được đạo /gạo” hoặc “Dĩ thực vi tiên” mà lị. Vậy thì quý vị hẹp hòi gì mà chẳng cho chữ “ĂN” một chỗ đứng xứng đáng đâu đó trong văn học nghệ thuật.
Như được kể lại, nhà cháu khi mới lọt lòng mẹ, là đã khóc thất thanh lên đòi ăn. Mụ đỡ hiểu ý, vội vàng kiếm một bình sữa cho nhà cháu lót dạ rồi thì đâu vào đó cả. Cụ Nguyễn Công Trứ đã có lần nói:
“Chợt mới sinh thì đà khóc chóe.”
Như vậy động tác đầu tiên của cuộc đời là “khóc” và động tác thứ nhì – như theo kinh nghiệm bản thân của nhà cháu là: “Ăn.” Trong một đời người, “Ăn” đứng thứ nhì trên khía cạnh thời gian tính thì ai dám bảo là không quan trọng?
Nhà cháu dần dà lớn lên, và chữ ăn thiên mệnh cũng lớn theo. Nhà cháu hăng hái “gianh ăn” với anh chị; và “ăn vụng” như mỏ khoét.
Không biết quý vị có để ý không? Chứ nhà cháu thấy Việt Ngữ phong phú của mình xử dụng chữ “ăn” hơi nhiều ! Có đến gần “ba-mươi-lăm-phần-trăm” các động từ (đây là thống kê riêng của nhà cháu). Chẳng hạn, nhà cháu xin kể qua loa trong sinh hoạt hàng ngày, như:
“Làm” thì bảo là “làm ăn,” “chơi” thì bảo “ăn chơi,” “học” bảo là “ăn học,” “hút” là “ăn hút,” “mặc” là “ăn mặc,” chuyện vợ chồng phòng kín thì bảo là “ăn nằm!” (kinh thật ! nằm mà vẫn ăn được?) …
Ôi thôi thì:
“Ăn tết,” “ăn hỏi,” “ăn cưới,” “ăn quịt,” “ăn cướp,” “ăn trộm,” “ăn mày,” “ăn chia,” “ăn chỉa”...
Có rất nhiều trường hợp chẳng thấy có cái gì để “ăn” hết, ấy thế mà chữ “ăn” vẫn được dùng như:
“Ăn nhịp,” “ăn khớp,” “ăn mòn,” “ăn năn,” “ăn ảnh,” “ăn sương”…
Mỗi khi tức giận nhau, thiênhạ vẫn thường hay gán ghép cho nhau “ăn” một cách tận tình những món không được lành mạnh mà nhà cháu không tiện kể ra ở đây.
Đến khi học lớp 10 ở trường trung học Mạc Đĩnh Chi, cái trường mà các em gái hậu phương nhớn bé Gia Long, Trưng Vương thường “chọc quê” nhà cháu là trường “Má-Đi-Chợ” (để mua đồ ăn?) Kể lại chuyện này, nhà cháu vẫn còn ấm ức như bị “bò” đá (nhà cháu không có ý định so sánh đâu đấy nhé). Nhà cháu rất thích chương trình Việt Văn, nhất là Ca dao Tục ngữ Việt Nam. Chữ “ăn” thấy nhan nhản trong ca dao:
“Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”
“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”
“Một con ngựa đau, cả tầu không ăn cỏ”
“Ăn cây nào rào cây ấy””
“Ăn cháo đá bát”
…
Về câu đối mới thật ly kỳ. Có những câu đối rất khúc mắc từ xa xưa mà cho đến nay vẫn chưa có người đối được. Nhà cháu “xiu tầm” được một câu đối bất hủ của cụ Cử Luận (?) mà cho đến nay, như nhà cháu được biết, vẫn chưa ai đối được đó là:
“Đường đất thịt, trơn như mỡ
Giò đến hàng nem, chả muốn ăn.”
Câu đối tài tình ở chỗ liệt kê tuần tự các món ăn như “Đường,” “Thịt,” “Mỡ,” “Giò,” “Nem” và “Chả” và kết thúc bằng một chữ “ăn.”
Và nhà cháu cũng ghi được câu đối sau đây trên tường một tiệm phở ở vùng Falls Church, Virginia – USA (?) để các cụ tự chấm điểm lấy một mình:
“Nạc mỡ nữa làm gì, em nghĩ đã chín rồi, đừng nói với em câu tái giá.”
“Muối tiêu không đáng ngại, lão thấy còn gân chán, hãy vui cùng lão miếng gầu dai.”
Học đến lớp 12, về thơ mới, đến mục thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử, thú thật lúc đó nhà cháu còn gà mờ, thiển cận. Thơ là:
“Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?”
(Hàn Mặc Tử – “Lang Thang”)
Nhà cháu cứ nghĩ vớ va vớ vẩn là ông thi sĩ này vừa tham ăn, mà lại vừa muốn ăn những món oái ăm. Ậy! Đến khi đi vượt biển tìm tự do, lênh đênh đói khát trên biển Thái Bình Dương bẩy ngày rồi. Nhìn chung quanh cái “thuyền” chỉ thấy trời, mây, gió, và nước biển bao la. Nhà cháu mới thấy thi sĩ Hàn Mặc Tử là thi sĩ của dân Việt tị nạn vượt biển. Thi sĩ đã đưa cái tâm trạng của dân tị nạn cộng sản vượt biển tìm tự do vào Văn học sử cả mấy chục năm rồi mà bây giờ nhà cháu mới nhận ra được.
Còn nữa! Lúc còn ở quê nhà, sau khi học xong chương trình Canh Nông ở Sài Gòn, là một chuyên viên nông nghiệp, nhà cháu có một dịp tiếp xúc và thăm dân quê ở Bình Định. Dân Bình Định rất hiếu khách. Thấy nhà cháu đến thăm, chủ nhà sai vợ con bưng ngay một mâm thức ăn để mời nhà cháu “xơi.” Mặc dù đã dằn bụng vài tô bún bò (Huế) tại chợ quận rồi, những vì vấn đề ngoại giao, lịch sự khó từ chối, nhà cháu phải cầm đũa. Trên mâm chỉ mộc mạc có món trứng chiên, “bánh tráng (bánh đa) nhúng nước” và một chén nước mắm nhỏ. Thú thật, nhà cháu là dân thanh phố quen uống nước “phông tên” cho nên có thể ăn trứng chiên, nhưng “bánh tráng nhúng nước” suông (?) thì nhà cháu không tha thiết cho lắm. Một bô lão, có lẽ là thân phụ của gia chủ, ngồi tiếp chuyện với nhà cháu. Cụ đoán được ngay là nhà cháu không thích “bánh tráng nhúng nước.” Cụ mở đầu câu chuyện như sau:
– “Bánh tráng nhúng nước” này là món ăn “chiến lược” đấy!
Nhà cháu nghe qua hãi quá, cố vận động mớ kiến thức của mấy năm đèn sách ở tỉnh thành xem “bánh tráng nhúng nuớc” có ăn nhậu gì với “chiến lược” không? Nhà cháu tuyệt nhiên không tìm thấy câu trả lời nào cả. Nhìn lại dung nhan bô lão với đầu tóc râu bạc phơ, tư thế ung dung đáng kính, nhà cháu nghĩ thầm câu chuyện này chắc là đứng đắn chứ không phải đùa giỡn, nên hỏi:
– Thưa cụ, cháu không hiểu ý cụ muốn nói gì về “bánh tráng nhúng nước?”
Thay vì trả lời câu hỏi của nhà cháu, bô lão lại hỏi nhà cháu liên tiếp những câu hỏi liên quan đến Việt Sử lớp 5 (lớp nhất) như sau:
– Cậu có biết Vua Quang Trung từ lúc điểm quân ở Phú Xuân (Huế), để đánh quân Thanh sang giúp Lê Chiêu Thống ở Thăng Long, rồi không cho quân sĩ ăn tết, cứ thế mà tiến quân, chiếm Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa, vào thẳng Thăng Long sau đó mới cho quân sĩ ăn tết trong vòng bao nhiêu ngày không?
Nhà cháu mừng qúa. Vì đây là bài Việt Sử mà nhà cháu học “tủ” để thi vào lớp 6 (đệ thất) trường trung học. Nhà cháu anh dũng trả lời không thiếu một dấu phẩy:
– Dạ thưa Cụ, Vua Quang Trung từ khi rời Phú Xuân đến lúc vào Thăng Long chỉ mất có 5 ngày 5 đêm.
Bô lão tiếp tục hỏi:
– Thế cậu có biết tại sao Vua Quang Trung đại thắng quân Thanh không?
– Thưa vì, thứ nhất, quân Thanh vẫn tưởng quân sĩ ta đang mải nhậu nhẹt, hoặc đang bận lắc “bầu cua cá cọp” ở Phú Xuân trong mấy ngày tết. Họ đâu có biết quân sĩ ta không ăn tết. Hơn nữa, Vua Quang Trung chuyển quân như vũ bão. Khi quân lính mệt, thì cứ hai người cáng một người. Quân đi không nghỉ chân. Vua Quang Trung đã dùng một ưu điểm quân sự. Đó là yếu tố bất ngờ!
– Cậu còn thiếu một điểm rất quan-trọng.
Vụ đố vui để học tới chỗ này, thú thật nhà cháu cảm thấy hơi bất mãn. Nhờ bài Việt Sử học “tủ” nầy mà nhà cháu đậu hạng cao vào lớp 6, thế mà bô lão này muốn “chơi” nhà cháu thấy rõ. Nhà cháu bướng bỉnh hỏi lại:
– Thưa Cụ, cháu không biết cụ có nhớ lầm không?
Bô lão lại ung dung đáp:
– Lão đâu có nhớ lầm. Cậu nên biết quân sĩ của ta nếu không “ăn” thì lấy sức đâu ra mà cáng với võng? Vào thời buổi đó đâu có gạo sấy “mí lị” đồ hộp như bây giờ. Mỗi lần muốn ăn là phải giở nồi niêu, xoong chảo ra xào nấu inh ỏi. Sửa soạn một bữa ăn phải mất vài tiếng đồng hồ. Ăn xong, còn phải rửa nồi, rửa chén đũa. Chiến sĩ anh hùng của ta ai cũng thích ăn, nhưng rất ít người muốn rửa chén. Thế là sau mỗi bữa ăn lại phải cãi vã một hơi nữa xem ai đến lượt rửa chén. Thử làm một bài toán nho nhỏ. Nếu một ngày phải ăn ba bữa, thì có lẽ “9 tháng 10 ngày” sau quân ta chưa chắc gì đã ra đến Thăng Long. Khi đó quân Thanh đã ăn tết xong. Đã chỉnh đốn hàng ngũ đâu ra đấy. Quân Việt có đánh hùng hục chưa chắc đã thắng nổi quân Thanh một cách dễ dàng như vậy; và không biết lịch sử dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu nữa? Xin lỗi cậu, lão phải dài giòng văn tự chỗ này, với mục đích cho cậu thấy sự sáng suốt của Vua Quang-Trung. Ngài giải quyết tất cả sự dài giòng này của lão bằng “bánh tráng nhúng nước.” Quân sĩ được lệnh mang theo “bánh tráng (bánh đa) khô.” Khi đói cứ việc nhúng nước rồi vừa đi vừa ăn. Vừa ăn vừa đánh. Không phải nấu nướng làm chi cho ô nhiễm không khí. Quân ta đại thắng quân Thanh phần lớn là nhờ “bánh tráng nhúng nước.” Như vậy, “bánh tráng nhúng nước” không phải là món ăn “chiến lược” thì gọi là gì?
Nhà cháu bái phục bô lão sát đất. Hôm đó nhà cháu còn nhớ là làm liều hỏi chủ nhà xin thêm bánh tráng và ăn “láng coóng” hết 2 đĩa bánh tráng nhúng nước suông mà vẫn còn sống sót để tiếp tục ca bài “Anh không chết đâu em!” trên đường trở về Sài Gòn.
Câu chuyện “Ăn” coi vậy không ngắn đâu các cụ ạ. Nó còn dài hơn là chuyện dài “nhân dân tự vệ” nữa. Nhà cháu chỉ xin đi một vài đường sơ lược đại khái để quý vị thấy “ăn” được dùng trong văn, thơ, câu đối, tục ngữ, ca dao, sử ký…
Việc ăn lại còn có trong phong tục nữa cơ các cụ ạ! Các bô lão lúc gần qua đời vẫn cố gắng ăn thêm một bữa nữa, để nếu có bề gì thì sẽ không làm “ma đói.” Người nào mà lỡ vội vã từ giã cõi đời không kịp ăn, thì thân nhân cậy miệng ra cho ít gạo sống vào để người chết không là “ma đói.” Người ta tin rằng có như thế con cháu mới dễ “làm ăn!” Đây là chuyện có thật! Quý vị có tin hay không đó là đời tư của quí cụ; nhà cháu không dám bàn thêm vào. Riêng phần nhà cháu, nhà cháu đã chứng kiến bà Cô “xấu số” được ăn gần nửa bát gạo sống. Kinh thật! Chết hẳn hoi rồi mà vẫn cò phải “ăn.”
Tóm lại “Ăn” đóng một vai trò rất lý thú trong văn chương bình dân cũng như văn chương bác học. “Ăn” hiện diện trong tất cả mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh “hỉ, nộ ái, ố …” của nhân sinh.
Để chấm dứt, nhà cháu mượn 2 câu thơ của thi hào Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” như sau:
“Lời quê góp nhặt giông dài.
Mua vui cũng được một vài trống canh.”
Thân Mến.
Trần Văn Giang
Kính thưa quý Thầy Cô, đồng môn,
Đều đáng nói thêm ở đây là: Bài “Chuyện Ăn” là bài đầu tay của “sự nghiệp viết (mà không) lách” của Trần Văn Giang.
Bày này tôi viết năm 1980 ngay sau khi hoàn tất xong lớp “English Composition” (4 Units) tại UCLA. Tôi bắt đầu viết thử 1 bài vì đây cũng là lần đầu tiên trong đời, tôi mới hiểu cách viết (writing) là thế nào ?!
Bài này tôi đã gởi cho Ban Báo chí của “Hội Sinh Viên Việt Nam tại UCLA” (VSA at UCLA); và được chọn đăng trong “Đặc san đầu tiên” của “VSA at UCLA” (niên khóa 1980-81). Every thing else is history.
Thân mến,
Trần Văn Giang