Múa Lân

.

 

 

 

*

 

 

Lời Mở đầu

 

 

Trong bài này, chữ “Lân” và “Sư Tử” được dùng để cùng chỉ con “Kỳ Lân” – tức là con “Sư Tử” trong huyển thoại Trung Hoa chứ không phải con “Sư Tử” thường tình mà chúng ta thấy trong sở thú.

 

 

TVG

 

 

*

 

 

Múa Lân là một môn nghệ thuật múa dân gian, thường được biểu diễn trên đường phố, có nguồn gốc từ Trung Hoa khoảng vài ngàn năm rồi.  Múa Lân thường được biểu diễn trong các dịp lễ hội, đặc biệt là “Tết Trung Thu” và “Tết Nguyên Đán” vì con Lân tượng trưng cho thịnh vượng, phát đạt, hạnh phúc, hanh thông,…

 

 

Tôi xem kỹ lại truyền thống lễ hội, nhất là Tết, của Việt Nam ta thì không hề thấy các tài liệu nào nói gì đến Múa Lân… Nói như vậy, Múa Lân là một truyền thống văn hóa đặc trưng của Trung Hoa được di dân người Hoa đem vào các quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa của Trung hoa như Tây Tạng, Nhật Bản, Đại Hàn. Mã Lai, Nam Dương và Việt Nam… Múa Lân cũng có thể được thực hiện tại các dịp quan trọng như sự khai trương kinh doanh, lễ kỷ niệm đặc biệt hoặc lễ cưới; hoặc có thể được sử dụng để tôn vinh những vị khách đặc biệt của cộng đồng người Trung Hoa chứ không riêng gì lúc được biểu diễn trong dịp tết và các lễ hội và tôn giáo.

 

 

Lịch sử của Sư Tử

 

 

Nguồn gốc của trình Sư Tử (còn gọi là Kỳ lân) là một con vật trong huyền thoại Trung Hoa rất to lớn có sừng; chứ không phải con Sư tử mà chúng ta thường thấy ở sở thú –  và diễn Múa Lân vẫn còn nhiều tranh cãi.  Có nhiều chuyện cổ được thêu dệt tứ tung rất hoang đường; tuy nhiên tôi thấy có câu chuyện sau đây là lý thú và tương đối đơn giản hợp lý:

 

 

Lâu lắm rồi, có một ngôi làng trên vùng cao nguyên ở miền Nam Trung Hoa đang sống yên lành thì cứ mỗi năm, có một con quái vật to lớn một mắt có sừng xuất hiện gầm thét, đe dọa, phá hoại các mùa màng mà dân làng đang canh tác.

 

 

Dân làng rất sợ hãi chưa biết phải đối phó như thế nào.  Môt hôm có một vị thần hiện ra chỉ cho biết là: ‘Con quái vật này sợ 3 thứ là tiếng dộng lớn, lửa và màu đỏ… Các ngươi cứ theo đó mà tùy nghi phòng thủ.’  Dân làng nghe theo, dùng tre và vải thô dựng lên một con vật giả to lớn nhìn cũng hung dữ để 2 người có thể chui vào điều khiển làm cho di động được; đồng thời cũng dùng tiếng pháo và đập cả nồi niêu soong chảo để tạo âm thanh; rồi sẵn sàng chờ đợi sự xuất hiện của quái vật một mắt.

 

 

Khi con quái vật vừa xuất hiện để bắt đầu quấy phá thì tất cả làng cùng ùa ra một lúc, vừa đốt pháo vừa đập nồi niêu loạn xà ngầu;  đồng thời chuyển con thú giả bằng tre và giấy trông to lớn dữ tợn xông tới trấn áp con quái vật một mắt.  Kết quả quái vật chẳng hiểu trời đất gì ráo, chạy có cờ, trốn mất đất. 

 

 

Hoạt cảnh này là là nguồn gốc của truyền thống Múa Lân mỗi năm ở Trung Hoa.”

 

 

Nhiều nhà nghiên cứu Dân tộc học lại cho là Lân có nguồn gốc từ bên ngoài Trung Hoa như Ấn Độ hoặc Ba Tư.  Ông Laurence Picken cho là theo văn bản của nhà Hán (206 TCN – 220 SCN) thì chữ “Sư Tử” được sứ giả của đế chế Pathis (Ba Tư) trình bày làn đầu tiên với triều đình nhà Hán; và Múa Lân (“hành vi sư tử”) được một học giả Tam Quốc là Mạnh Khang ghi trên văn bản lần đầu – một bài bình luận về Hán Thư ?) ở khoảng thế kỷ thù 3 Sau Công Nguyên (SCN). 

 

 

Múa Lân

 

 

Vào thời Tống (960-1279) thì sự biểu diễn Múa Lân trong các lễ hội gọi là “Sư Tử Phương Bắc.”  Sư Tử phương Bắc có đầu làm bằng gỗ sơn vàng, đuôi lụa, thân hình có lông tóc dài xù màu vàng đỏ, mắt mạ vàng, răng bạc với 2 tai chuyển động được. Sư Tử Phương Bắc nhìn giống như chó Bắc Kinh hoặc Sư tử đá và các chuyển động của nó giống như thật trong khi biểu diễn. Sư Tử phương Bắc nhào lộn rất phổ biến, với các pha nguy hiểm như giữ thăng bằng trên các cọc gỗ, hoặc trên một quả bóng khổng lồ.

 

 

Sư Tử Phương Bắc đôi khi xuất hiện như một “gia đình” gồm 2 “sử tử trưởng thành” (1 con đực mang nơ đỏ và 1 con cái mang nơ xanh – mỗi con trưởng thành có có 2 người điều khiển) và 2 “sư tư con” (chỉ cần 1 người điều khiển).

 

 

Đến đời nhà Minh (1368-1644) có một sự phát triển khác về một dòng Múa Lân mà ngưởi ta gọi là “Sư Tử Phương Nam” – Sư Tử Phương Nam bắt nguồn từ Quảng Đông cho nên còn có tên gọi là “Sư Tử Quảng Đông.” Loại này gần gũi với loại Sư Tử (và Múa Lân) mà dân Việt thường thấy ở Việt Nam.  Ngoại hình và cách múa, cách di chuyển của Sư Tử được cải biến, tái tạo rất nhiều:  Đầu làm bằng tre hay nhôm có sừng (sau này sừng bị loại bỏ vì hay gẫy / vỡ ghi nhào lộn mạnh!), không có tai, đầu có lông ngắn; mình bằng vải cũng có vằn lông ngắn.  Sư Tử thường có màu xanh (Sư Tử cái) hay màu trắng, vàng / vảng nhạt (Sư Tử đực).  Ngoài ra đầu và thân Sư Tử được viền thêm nhiều mầu sắc rực rỡ nhìn cho đẹp mắt (?).

 

 

Nên biết thêm điệu nhảy và cách di chuyển của Sư Tử Phương Bắc vui tươi hơn của Sư Tử Phương Nam.

 

 

Sư Tử Quảng Đông lại chia ra làm 2 phong cách tùy theo xuất xứ của chúng.  Đó là: “Quảng Đông Phật Sơn” (dịch nôm là “Núi Phật”) và “Quảng Đông Hạc Sơn” (“Núi Cầu”).

 

 

Phật Sơn là phong cách được nhiều trường phái võ thuật áp dụng. Nó đòi hỏi sức mạnh trong các động tác và sức mạnh trong tư thế, sử dụng các tư thế võ thuật để giúp đỡ với các chuyển động và cảm xúc sắc nét… Chỉ những biểu diên viên có võ thuật cấp cao mới được phép biểu diễn. Theo truyền thống, Sư Tử Phật Sơn có lông và nặng hơn những con hiện đại được sử dụng phổ biến hiện nay. Nó cũng có một cái đuôi rất dài và mắt xoay trái và phải.

 

 

Tất cả các phong cách truyền thống của Phật Sơn đều có răng cửa sổ bật lên ở đầu, lưỡi và mắt xoay. Mặt dưới của đuôi có màu trắng; các thiết kế của đuôi cũng vuông hơn và có hoa vằn kim cương đi xuống phía sau, và thường có chuông gắn ở đuôi. Nó có cái trán cao, đôi môi cong và cái sừng sắc nhọn trên đầu. Sư Tử Phật Sơn truyền thống có hình dáng trang trí công phu, một số phong cách khu vực tuy nhiên đã phát triển trên khắp thế giới. Các kiểu mới hơn của sư tử Phật Sơn thay thế tất cả các lông bằng lông và đuôi ngắn hơn. Đôi mắt được cố định tại chỗ, và lưỡi và răng không bật lên. Đuôi cong hơn trong thiết kế, không có hoa vẩn kim cương và thiếu chuông.

 

 

Sư tử phong cách Hạc Sơn được biết đến với sự phong phú về biểu cảm, bước chân độc đáo, ngoại hình ấn tượng và phong cách đánh trống mạnh mẽ. Người sáng lập phong cách này được cho là “Vua Sư Tử Quảng Đông” Phùng Canh Trường vào đầu thế kỷ 20. Ông được sinh ra tại một ngôi làng thuộc quận Hạc Sơn ở Quảng Đông và được cha mình hướng dẫn về võ thuật và múa sư tử. Sau đó, anh cũng học võ thuật và múa lân Nam ở Phật Sơn trước khi trở về quê nhà và thành lập phòng huấn luyện của riêng mình. Ông đã phát triển phiên bản múa lân độc đáo của mình, tạo ra các kỹ thuật mới bằng cách nghiên cứu và bắt chước chuyển động của mèo, như “bắt chuột, chơi, bắt chim, trốn cao, nằm thấp và lăn.”

 

 

Sư Tử / Múa Lân Việt Nam

 

 

Hầu hết “Sư Tử ở Việt Nam” giống với “Sư Tử Phương Nam” của Trung Hoa – chúng là một phần của truyền thống sư tử miền Nam Trung Quốc nhưng đã được Viêt Nam hóa nhiều. Tuy nhiên, cũng có những hình thức địa phương khác biệt đáng kể về ngoại hình và hiệu suất, chẳng hạn như Múa Lân của các dân tộc thiểu số Tày và Nùng. Điệu nhảy thường dựa trên quá trình giao phối, sinh và vòng đời của Kỳ Lân.

 

 

Điệu múa được thực hiện chủ yếu tại các lễ hội truyền thống như Tết Trung thu và Tết Nguyên đán; cũng như trong các dịp khác như khai trương một doanh nghiệp mới, sinh nhật và đám cưới. Điệu nhảy thường đi kèm với các võ sĩ và nhào lộn.

 

 

Một đặc điểm của điệu nhảy Kỳ Lân Việt Nam là màn nhảy của Ông Địa (hay “Linh hồn của trái đất.”)  Ông Địa được miêu tả là một người đàn ông bụng to, lúc nào cũng cười toe toét, cầm một chiếc quạt lá giống như “Phật” (佛) của Trung Hoa. Tinh thần tốt bụng (bụng phệ do độn vải, nếu không độn thì cần một người thật béo đóng giả), theo tín ngưỡng phổ biến, có sức mạnh để triệu tập Kỳ Lân tốt lành, và do đó trong khi nhảy, đi đầu trong việc dọn đường cho con Kỳ Lân. Sự xuất hiện hài hước của Ông Địa làm tăng thêm tính chất lễ hội và vui vẻ của điệu nhảy.  

 

 

Thật vậy, Múa Lân Việt Nam không thể nào thiếu Ông Địa.  Người này mặc áo dài, tay cầm quạt giấy to phe phẩy, mang mặt nạ ông địa đầu hói tròn cười toe toét đi theo giỡn với Lân, giỡn khách xem múa hoặc mua vui cho gia chủ. Ông Địa được cho là hiện thân của “Đức Di Lặc,” – một vị Phật lúc nào cũng tươi vui hiền lành. Truyền thuyết kể rằng “Đức Di Lặc” đã hóa thân thành người và chế ngự / cải hóa được một quái vật (con Lân) từ dưới biển lên bờ phá hoại. “Đức Di Lặc” hóa thân thành người, gọi là ông Địa, lấy cỏ “linh chi” trên núi cho quái vật ăn và hàng phục được nó, biến nó thành con thú ăn thực vật (vegetarian).

 

 

Từ đó, mỗi năm ông Địa lại dẫn nó xuống núi chúc Tết mọi người, chứng tỏ quái thú đã thành thú lành, cái ác trở thành cái thiện. Ông Địa và con Lân đi đến đâu là giáng phúc tới đó nên nhà nào cũng hoan hỉ treo rau xanh và giấy đỏ đón chào. Sau này, người có tiền thường treo giải bằng tiền buộc trong một miếng vải đỏ, treo cùng bắp cải hoặc rau xanh (rau Diếp?). Lân phải trèo lên cao lấy bằng được “thức ăn” này. Tất nhiên, ông Địa không cùng trèo với Lân được (vì béo quá?) mà chỉ cùng Lân múa, phe phẩy chiếc quạt to, ru Lân ngủ hoặc đánh thức Lân dậy. Cảnh ông Địa vuốt ve Lân và Lân mơn trớn ông Địa, thể hiện được tình cảm và sự hòa hợp sâu sắc giữa loài vật và loài người trong một bầu không khí thanh bình, hoan lạc.

 

 

Âm nhạc và nhạc cụ

 

 

Múa Lân được biểu diễn kèm theo âm nhạc gồm trống, chũm chọe, thanh la và cồng chiêng. Dụng cụ đồng bộ hóa với các động tác và hành động Múa Lân Phật Sơn, Hạc Sơn, Phật-Hạc, Chow Gar, v..v… Tất cả đều chơi với nhịp đập (beat) khác nhau. Mỗi phong cách chơi một nhịp độc đáo. Sự phát triển trong các thiết bị điện tử đã cho phép phát nhạc qua điện thoại /máy tính bảng /máy tính /máy nghe nhạc “mp3.” Điều này đã góp phần vào sự phát triển của cách mọi người có thể chơi nhạc Múa Lân – loại bỏ nhu cầu mang theo các nhạc cụ (có thể khá lớn).

 

 

 

Phong cách phổ biến nhất là nhịp điệu sư tử “Sar Ping.” Điệu này có hơn 22 cách chơi khác nhau mà quý vị có thể sử dụng để thể hiện chuyển động của sư tử, trong khi “Sư Tử Phật Sơn” chỉ có khoảng 7.

 

 

Trang phục

 

 

Trang phục Múa Lân được vũ công sử dụng trong các buổi biểu diễn tương tự như trang phục của các học trò các trường phái võ thuât Trung Hoa.  Trang phục này phần lớn chỉ có thể được sản xuất từ các cửa hàng thủ công đặc sản ở các vùng nông thôn châu Á và phải được nhập cảng chi phí đáng kể cho hầu hết các quốc gia nước ngoài ngoài châu Á. Đối với các nhóm ở các nước phương Tây, điều này được thực hiện thông qua các quỹ được huy động thông qua ký kết và cam kết được thực hiện bởi các thành viên của các hiệp hội văn hóa và kinh doanh địa phương. Đối với các quốc gia như Mã Lai, Nam Dương có dân số Trung Hoa đáng kể, chuyên môn địa phương có thể có sẵn trong việc sản xuất trang phục và nhạc cụ “Sư Tử” mà không phải nhập cảng chúng từ Trung Quốc.

 

 

 

Hiệp hội múa lân và võ thuật

 

 

Múa lân Trung Hoa có quan hệ mật thiết với võ thuật (武術) và các vũ công thường là thành viên võ thuật của câu lạc bộ hoặc trường học võ địa phương. Họ luyện tập trong câu lạc bộ của họ và một số huấn luyện chăm chỉ để thành thạo kỹ năng là một trong những môn võ thuật. Nhìn chung, người ta thấy rằng nếu một trường học có một đoàn kịch có khả năng với nhiều “Sư Tử,” thì điều đó chứng tỏ sự thành công của trường. Nó cũng thường được luyện tập cùng với Múa Rồng ở một số khu vực.

 

 

Trình diễn múa lân

 

 

Lân chỉ được chế tạo cái đầu thật công phu, còn mình là vải thêu, viền rất khéo. Có loại Lân đặc biệt, nửa giống Lân, nửa giống Rồng, nhưng ít xuất hiện trong các buổi diễn.

 

 

Đám Múa Lân thường gồm có một người đội chiếc đầu Lân bằng giấy và múa những điệu bộ của con vật này theo nhịp trống. Đầu Lân có một đuôi dài bằng vải màu do một người cầm phất phất theo nhịp múa của Lân. Ngoài ra còn có trống thanh la, não bạt, đèn màu, cờ ngũ sắc, có người cầm côn đi hộ vệ đầu lân và quan trọng nhất không thể thiếu đó là ông Địa. Thường đội lân đánh trống vang xóm và nhà nào có treo thưởng thì đội lân sẽ đến múa chúc vui, tiền thưởng thường treo trên cao, có khi buộc trên cành tre cao, đội Lân sẽ đôn (Stacking) người lên cho Lân há miệng ngoạm lấy (có khi làm thang là một cột thép dựng đứng để Lân leo). Thường phần thưởng càng lớn thì treo càng cao, đội lân càng có nghề càng thích phần thưởng treo cao, xem như một thách thức các đội Lân khác, đồng thời qua đó chứng tỏ tài nghệ của đội để thu hút các gia chủ khác. Nhưng trong nhà có người già thì phần thưởng lại được treo thấp dù có giá trị cao, chắc tránh cho lân gặp phải nguy hiểm xem như gia chủ để phước. Ông địa phải vào nhà vái chào người già, gia chủ, sau đến giỡn chơi hoặc làm hề cho trẻ em vui, nếu gia chủ tỏ ý muốn mời thì đoàn lân sẽ vào, sau khi lân ngậm được tiền, lân gục gặc đầu cảm tạ thì ông địa lại vái chào cảm ơn gia chủ trước khi đoàn lân qua nhà khác.

 

 

Có nhiều kiểu múa lân.

 

 

– “Độc chiếm ngao đầu“: Một con lân biểu diễn, thể hiện tài tả xung hữu đột, tiến thoái nhịp nhàng, bộ pháp hùng dũng, nhảy cao, trèo giỏi, tượng trưng cho cái uy, cái dũng của một mãnh tướng, một hảo hán, một vị anh hùng.

 

 

– “Song hỉ“:  Hai con lân cùng biểu diễn, thể hiện niềm hân hoan khoan khoái, tâm đầu ý hợp như loan với phụng, như vợ với chồng, như đất trời và âm dương tương hợp.

 

 

– “Tam Tinh“:  Ba con lân hợp múa với ba màu vàng, đỏ, đen, thể hiện những điều cầu nguyện của mọi người đạt được điều lành, ba điều tốt là Phúc, Lộc, Thọ.

 

 

– “Tam Anh“: Ba con lân cùng múa, diễn tả Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi vừa hùng dũng, vừa có chí lớn, vừa thương yêu, gắn bó với nhau hơn cả anh em ruột thịt cho đến chết.

 

 

– “Tứ Quý hưng long“:  Bốn con lân cùng múa, gồm bốn đầu lân trắng, vàng, đỏ, đen (hoặc xanh), tượng trưng cho bốn mùa, bốn phương, bốn hiện tượng trong trời đất, diễn tả sự sung mãn, trường thọ, mạnh khỏe và hạnh phúc.

 

 

Múa lân trong các dịp lễ

 

 

Trong dịp Tết Nguyên đán, các đoàn Múa Lân sẽ đến thăm các ngôi nhà và cửa hàng của cộng đồng châu Á để thực hiện phong tục truyền thống “cai qing” (採青), nghĩa đen là “nhổ cỏ xanh,” theo đó, sư tử cắm cây xà lách xanh tốt lành hoặc treo trên cột hoặc đặt trên bàn trước mặt bằng. “Rau xanh” (qing) được gắn với nhau bằng một “phong bì đỏ” chứa tiền và cũng có thể bao gồm trái cây tốt lành như cam. Trong tiếng Hoa “i” (採, nhổ) cũng nghe giống như “cài đặt” (菜, nghĩa là rau) và “cái” (财, có nghĩa là vận may). “Sư Tử” sẽ nhảy và tiếp cận “phong bì xanh” và “phong bì đỏ” như một con mèo tò mò, để “ăn xanh” và “nhổ” nó ra nhưng giữ “phong bì đỏ” là phần thưởng cho đoàn Sư Tử. Múa Lân được cho là mang lại may mắn và tài lộc cho doanh nghiệp. Trong triều đại nhà Thanh (Qing Dynasty), có thể có thêm những ý nghĩa ẩn giấu trong các buổi biểu diễn, ví dụ như các loại “rau xanh” (qing) mà Sư Tử ăn có thể đại diện cho “Nhà Thanh Mãn Châu.

 

 

Các loại rau, trái cây, thực phẩm hoặc dụng cụ khác nhau với ý nghĩa tượng trưng tốt và tốt; ví dụ như dứa, bưởi, chuối, cam, măng, dừa, bia, nồi đất sét hoặc thậm chí cua có thể được sử dụng để “nhổ” tạo ra khó khăn và thách thức khác nhau cho điệu nhảy sư tử người biểu diễn. Nhưng những khó khăn của thử thách sẽ đi kèm với phần thưởng lớn hơn của “phong bì đỏ” được trao.

 

 

_____________

Tham Khảo

Wikepedia Tiếng Việt

 

 

 

 

Trần Văn Giang

Orange County

Tháng 1/2025

 

 

Múa Lân – Trần Văn Giang

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *