“Nửa hồn thương đau”
và Nhạc Sĩ Phạm Đình Chương
.
*
Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Ông theo học trường Bưởi đến bậc trung học thì nghỉ học, gia nhập đoàn ca kịch lưu diễn ở nông thôn vào năm 1946.
Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống âm nhạc; Hai thân sinh của ông đều chơi nhạc cụ cổ truyền. Thân phụ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được 2 người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long. Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có 3 người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.
Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phạm Đình Chương bắt đầu sáng tác vào năm 1947, khi 18 tuổi, với tác phẩm đầu tay là ca khúc “Ra đi khi trời vừa sáng.” Phần nhiều những tác phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Riêng hai sáng tác đầu tiên “Ra đi khi trời vừa sáng” và “Hò leo núi” đều có không khí hào hùng, tươi trẻ.
Năm 1951, ông và gia đình di chuyển vào miền Nam. Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng, du ca khắp các thành phố lớn của Nam Việt Nam lúc đó. Trong thập niên 1950, các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: “Xuân tha hương,” “Khúc giao duyên,” “Được mùa,” “Tiếng dân chài”… Thời gian sau, ông viết nhiều bản nhạc để đời, vui tươi hơn: “Xóm đêm,” “Ly rượu mừng,” “Đón xuân”…
Năm 1953, ông lập gia đình với ca sĩ Khánh Ngọc. Khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ năm 1961, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào bốn ca khúc da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: “Đêm cuối cùng,” “Thuở ban đầu,” “Người đi qua đời tôi,” “Nửa hồn thương đau.”
Trong thập niên 1960, Phạm Đình Chương đã sáng tác một loạt ca khúc phổ thơ rất thành công và được yêu chuộng. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như: “Ngợi ca tình yêu,” “Đêm màu hồng,” “Nửa hồn thương đau” (thơ Thanh Tâm Tuyền), “Khi cuộc tình đã chết,” và “Đêm nhớ trăng Sài Gòn” (thơ Du Tử Lê). Nổi bật nhất là “Đôi mắt người Sơn Tây” (thơ Quang Dũng) và “Mộng dưới hoa” (thơ Đinh Hùng)… Nói riêng về “Mộng dưới hoa,” ca khúc này đã theo năm tháng để trở thành một trong những bài tình ca được ưa chuộng và hát nhiều nhất của nhạc Việt.
Ngoài ra, Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam bài trường ca bất hủ “Hội Trùng Dương” nói về ba con sông lớn đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Từ đó, Phạm Đình Chương thường được cho là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Giai đoạn này cũng là lúc ông lập ra phòng trà tên gọi “Đêm Màu Hồng” và với ban hợp ca Thăng Long, đã biến nơi này thành chỗ hội tụ của các văn nghệ sĩ đương thời.
Sau năm 1975, Phạm Đình Chương sang định cư tại California, Hoa Kỳ vào năm 1979. Ông sống ở tại quận Cam cùng gia đình từ đó. Trong khoảng thời gian sống tại Hoa Kỳ, ông đã viết một số ca khúc cuối cùng gồm những tác phẩm phổ thơ như “Đêm nhớ trăng Sài gòn,” “Quê hương là người đó,” “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển” (phổ thơ Du Tử Lê), “Hạt bụi nào bay qua” (thơ Thái Tú Hạp) v..v… Ngoài ra, ông đã hoạt động rất thành công qua những buổi trình diễn tại các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới.
Vào mùa hè năm 1991, ông lâm bệnh và mất vào ngày 22 tháng 8 năm 1991 tại quận Cam, California ở tuổi 62. Theo như gia đình ông kể lại, người anh của ông là nghệ sĩ lão thành Hoài Trung cũng qua đời 11 năm sau đó, năm 2002. Vào một buổi sáng nắng ấm tại miền Nam Cali, gia đình ông đã đem tro cốt của hai ông rải ngoài biển như trong một ca khúc ông viết trong thời gian cuối cùng có nhan đề “Khi tôi chết, hãy đem tôi ra biển” (phổ từ thơ thi sĩ Du Tử Lê.)
Riêng ca khúc “Nửa hồn thương đau” được nhạc sĩ Phạm Đình Chương sáng tác vào đầu thập niên 1970 theo yêu cầu của ông Quốc Phong, giám đốc Liên Ảnh Công Ty để dùng làm nhạc cho bộ phim “Chân trời tím” do công ty sản xuất. Ông đã mượn 2 câu thơ của Thanh Tâm Tuyền để phổ nhạc cho bài hát. Có nguồn tin cho rằng ông sáng tác ca khúc này vì sự tan vỡ trong hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc khi phát hiện vợ ngoại tình với anh rể là nhạc sĩ Phạm Duy. Tuy nhiên sau này con của Phạm Đình Chương là ca sĩ Phạm Thành khẳng định đây là câu chuyện không có thật (?).
“Nửa hồn thương đau” được hầu hết các danh ca trong và ngoài nước trình bày: Đầu tiên là Thái Thanh rồi Lệ Thu, Khánh Ly, Ngọc Lan, Ý Lan, Julie Quang, Lệ Quyên, Hồ Hoàng Yến, Tuấn Ngọc, Bằng Kiều, Quang Dũng, Đức Tuấn, Bùi Lan Hương, Lan Ngọc…
“Nửa hồn thương đau”
Nhắm mắt cho tôi tìm một thoáng hương xưa
Cho tôi về đường cũ nên thơ
Cho tôi gặp người xưa ước mơ
Hay chỉ là giấc mơ thôi
Nghe tình đang chết trong tôi
Cho lòng tiếc nuối xót thương suốt đời
Nhắm mắt ôi sao nửa hồn bỗng thương đau
Ôi sao ngàn trùng mãi xa nhau
Hay ta còn hẹn nhau kiếp nào
Anh ở đâu ? Em ở đâu ?
Có chăng mưa sầu buồn đen mắt sâu
Nhắm mắt chỉ thấy một chân trời tím ngắt
Chỉ thấy lòng nhớ nhung chất ngất
Và tiếng hát và nước mắt
Đôi khi em muốn tin
Đôi khi em muốn tin
Ôi những người ôi những người
Khóc lẻ loi một mình…
____________
Tham Khảo
– Wikpidea Tiếng Việt
Trần Văn Giang (ghi lại)