Thi ca yêu nước: Chưởi và chửi
.
.
Đấu tranh bất bạo động có nhiều hình thức: Nào là xuống đường biểu tình hay tọa kháng; Nào là hội thảo kiến nghị hay tuyên cáo; Nào là hội luận hay cầu nguyện hiệp thông. Nhưng mới đây, xuất hiện một hình thức đấu tranh, tuy cổ điển, nhưng có thể nói là hữu hiệu và hợp thời, đáp ứng tình hình sôi bỏng tại Việt Nam hôm nay. Đó là “chửi” hay “chưởi” theo tiếng Trung…
Chưởi, mà chưởi độc, thì phải nêu tên Trần Vàng Sao, là một người đã từng “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản,” sau đó thức tỉnh, làm thơ chửi cộng sản với những lời lẽ cay độc hết chỗ nói. Nhất là khi từ “chưởi” đi với chữ “tau” thay vì “tao,” thành cụm từ “tau chưởi” càng có tính cách bình dân đại chúng như văn chương dân gian phỉ nhổ chế độ.
Nếu hỏi chưởi ai thì hãy nghe nhà thơ thẳng thắn trả lời là chưởi cả dòng họ, từ người sống cũng như người chết, không trừ một ai, nội ngoại cha con cháu chắt của lũ người bán nước buôn dân:
Mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nuớc
Giường thờ chiếu trải sắp hàng ra đây
Đặng nghe tau chưởi
Mười hai nhánh họ gồm những ai?
Trước tiên là “tụi bây,” bọn côn đồ đang vỗ ngực tự hào là kẻ chiến thắng. Tác giả chửi thẳng vào mặt, không cần nói cạnh khóe, không cần bóng gió:
Tau chửi bây
Tau chưởi thẳng vào mặt bây
Không bóng không gió
Không chó không mèo
Và chưởi luôn cả cha mẹ con cháu, đứa mới biết đi cũng như đứa đã lớn, tất cả đều phải chết thảm trong vạc dầu sôi, vất xác liệng hồn xuống đáy địa ngục:
Tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
Đọa xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu..
Tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
Sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
Nếu hỏi tại sao phải chưởi thì câu trả lời khẳng quyết là vì chế độ hôm nay chỉ là bầy sâu ác độc, là lũ rắn gian manh, là đàn cú nham hiểm, ngày đêm chỉ rình mò đem nọc độc và con mắt cú vọ để hãm hại dân tộc:
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
Bầy sâu lũ rắn đàn cú đó đã sử dụng mọi thủ đoạn để hại người, để giết chết dân tộc bằng miệng nói ngược nói xuôi, thay trắng đổi đen, ngậm máu phun người:
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm không dao
Không nói ra thì ai cũng biết, thế nào là ngậm máu phun người? Chỉ cần biểu tỏ lòng yêu nước, chống ngoại xâm, thì bị kết án là “phá rối trật tự an ninh.” Chỉ cần lên tiếng đòi tự do dân chủ trị thì bị luận xử là “âm mưu lật đổ chế độ.” Hay “bị kích động do thế lực thù địch.”
Còn chưởi để làm gì thì rõ ràng không phải chỉ là chưởi cho suớng miệng, cho hả dạ, mà cốt yếu là một chiêu thức đấu tranh, một ngón đòn độc hiểm nhằm giật sập lâu đài đao phủ, rồi liệng tất cả bọn phản bội xuống đáy địa ngục để làm sạch xã hội, để cứu rỗi trần gian:
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
Hòa theo tiếng chưởi của Trần Vàng Sao, còn vang vọng tiếng chửi của Lão Báng, cũng không kém cay độc. Nhà thơ đã chỉa thẳng mũi dùi vào những tên cộng sản đầu sỏ, mà không nói thì ai cũng biết, đó là tập đoàn Trung Ương đảng gồm khoảng 200 đứa, và cả lũ đàn em đang cúi đầu làm tay sai cho Tàu chệt:
Có bọn da Việt óc Tàu
Không nhận là tay sai
Chúng nó 200 đứa
Lão Báng cũng không nương tay với những người dân Việt tại quê nhà, muốn an thân, như lúa lép bay vèo trước gió, làm nhục cả truyền thống dận tộc hào hùng, bôi đen cả lịch sử oanh liệt:
Một bọn ở dưới ngây ngây
Dại dại
Dân Việt đếm được chín tư triệu
Lúa lép
Gió thổi bay vèo
Chịu làm thân chùm gửi
Đặc biệt, Lão Báng còn hướng về một số người Việt hải ngoại, nỡ quên căn cước tị nạn và thân phận lưu vong của mình, chạy theo lối sống đua đòi dị hợm, quên cả cội nguồn, quay lưng với những nỗi đau chất ngất của đồng bào tại quê nhà:
Cái điều muốn chửi thề văng tục
Là bọn hải ngoại
Chết tiệt
Ăn cho mập dư mỡ động cỡn lên cơn
Nước mất nhà tan trốn biệt
Nhóm người lưu vong này đã bị tha hóa, vui chơi phè phỡn bên lề thời cuộc. Ngày đêm son phấn lòe loẹt, áo mũ nghêng ngang, khoe sang khoe giàu, mặc kệ ai xuống đường biểu tình yểm trợ quốc nội, cử hành lễ chào cờ tôn vinh chính nghĩa quốc gia. Thay vì hòa đồng vào tiếng hát chuyển lửa về quê hương của Trúc Hồ, Việt Khang, Phan Văn Hưng, Thu Sương, Đình Đại, lại rủ nhau xếp hàng nghe nhạc ru ngủ, kể cả tiếng hát của những văn công từ Hà Nội gửi ra trong chủ trương “giao lưu văn hóa”:
Ca nhạc tốn tiền rủ nhau sắp hàng
Đánh má phấn bận áo vét
Di coi người khác biểu tình
Cử hành lễ chào cờ.
Mặc cho đồng bào rẫy chết tại quê nhà. Mặc cho cộng đồng tị nạn biểu tình yểm trợ đấu tranh trong nước. Mặc cho dân Việt bị đóng đinh trên khổ giá búa liềm, bọn người vong thân cứ vùi đầu trong những thú vui rẻ tiền, thản nhiên ngồi uống cà phê tán dóc, dương mắt chó mà không dám sủa trước bất công và bất nhân của bọn đao phủ đang hủy diệt cả một dân tộc:
Một bọn ngồi cà phê
Dương mắt chó
Biểu đừng chửi sao được
Con bà nó
Bắn mẹ hết cho xong!
Trần Vàng Sao, Lão Báng, và còn biết bao nhà thơ khác đang cùng với các ca nhạc sĩ, gieo vần thơ, bấm nốt nhạc, đốt lên ngọn lửa đấu tranh.
Đó là tiếng thi ca yêu nước, làm bừng dậy cuộc cách mạng dân chủ đang được châm ngòi tại Việt Nam.
.
Ngô Quốc Sĩ
*
Bài đọc thêm
1)- Bình Luận của Nam Đan
Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ) ở Thừa Thiên – Huế. Năm 1961 ông thi đỗ tú tài rồi vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở miền Bắc, ông có viết nhật ký gồm những suy nghĩ của ông về cái gọi là “hậu phương xã hội chủ nghĩa” và sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập đến nỗi ông có cảm giác không còn được coi là con người mà đã thành “một con vật, một con chó,” (theo như Hồi ký “Tôi bị bắt” – Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù sau này của ông).
Sau khi Việt Nam thống nhất (tháng 4 năm 1975), Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng không được chấp nhận; ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi về hưu năm 1984. Sau đó ông đang sống ở thành phố Huế.
Vào thời điểm này, bài thơ “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình” của ông được đăng trên Sông Hương, số kỷ niệm 5 năm ngày tạp chí ra đời. Bài thơ lập tức gặp phản ứng dữ dội của một số chức sắc địa phương.
Ông hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với “Bài thơ của một người yêu nước mình” ký bút danh Trần Vàng Sao sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20.
Năm 2008, Nhà xuất bản “Giấy Vụn” đã cho in tập thơ “Bài thơ của một người yêu nước mình” của ông.
Ở hải ngoại, nhà xuất bản Tân Thư (California, Hoa Kỳ) cũng cho in tập “Bài thơ của một người yêu nước mình” của ông.
Ông mất hồi 14 giờ 45 phút ngày 09/5/2018 tại thành phố Huế.
(theo Wikipedia tiếng Việt)
*
Sáng nay tình cờ tôi đọc bài thơ “Tau chưởi” dưới đây, và nghĩ rằng có lẽ trong văn học VN (và thế giới?!) khó tìm ra một bài thơ nào kinh dị, khốc liệt như bài thơ này. Điều gì làm cho tâm hồn con người – thi sĩ – phải đau đớn, quằn quại, căm hận, phẫn nộ đến vậy?
Tôi thấy lời bình của nhà báo Mặc Lâm (RFA) rất thú vị về bài thơ này:
“Trong văn học dân gian, không hiếm những bài vè, lục bát dùng để chửi bới người mình ghét. Nhưng đối với các nhà thơ vốn quen thuộc và trân trọng những con chữ thì việc chửi bới là một điều phạm húy. Trần Vàng Sao chẳng những không sợ chữ nghĩa đau đớn mà ông còn bóc trần, nạo hết nét vàng óng bên ngoài của chúng để phục vụ cho một bài thơ mà ông cảm thấy hả hê. Ông dùng thơ để chửi cả một chế độ. Chửi từng sự việc, từng con người. Cách chửi của bà nhà quê mất gà được ông “biên đạo” lại thành của riêng, gây sốc lẫn gây cười cho người đọc bài thơ.
Có điều là cười xong thì người ta lại chảy nước mắt…”
Tôi chỉ xin góp thêm vài ý.
Bài thơ “Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình” làm cho Trần Vàng Sao nổi tiếng, nhưng theo tôi, bài “Tau chưởi” mới là bài đáng kể nhất trong thơ của ông.
Về ngôn từ, ông lật đổ quan niệm “duy mỹ trong ngôn ngữ” lâu nay trong thơ Việt, nhưng điều khác biệt là ông không sử dụng đến những từ tục tỉu như nhiều nhà thơ đương thời đang dùng. Ông ác miệng, cực kỳ ác miệng, nhưng không tục tĩu.
Chửi là 1 trong 2 hành vi của kẻ yếu, của người thấp cổ bé miệng mà có chữ (nhà văn, nhà thơ chẳng hạn), nhưng không có cách gì để tự vệ, để phản ứng trước kẻ mạnh. Họ không thể phản ứng bằng hành động, bằng bạo lực, nên họ chọn cách phát ngôn bằng lời nói hay chữ viết. Hành vi còn lại sau chửi là đặt, viết những chuyện tiếu lâm đen mà chúng ta thường đọc, hay nghe kể. Tôi chưa từng gặp Trần Vàng Sao, nhưng tôi mơ hồ nghĩ rằng với cái tâm tính bộc trực và tâm hồn mẫn cảm của mình, ông chỉ có thể bày tỏ cảm xúc bằng cách chửi thẳng chứ không thể dùng ẩn dụ né tránh, nói kiểu móc họng, sâu xa, thâm thúy như nhiều người khác.
Điển hình là bài thơ “Tau chưởi.” Bài thơ nói thẳng, nói thật cảm xúc và suy nghĩ của một con người bị vùi dập, bị thể chế CS đàn áp thô bạo đến chỗ tàn tệ nhất.
Ban đầu, tôi suýt hiểu nhầm rằng bài thơ như phát ngôn của một con người vì quá đau đớn, quá phẫn nộ mà đứng ở chỗ mấp mé sự điên loạn, nhưng khi tôi đọc kỹ lại thì thấy không phải vậy. Bài thơ có một cấu trúc chặt chẽ, diễn đạt một tiến trình tâm lý rất lớp lang.
Từ dòng đầu của bài thơ, ông chưa chửi, mà ông nói. Ông bình tĩnh nói thiệt hơn về nỗi ấm ức vì phải câm nín trước sự tàn độc, bất công và dối trá cho tới khi chịu không nổi nữa:
“tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không.”
Từ đó, sự phẫn nộ kết tụ rồi bùng vỡ dữ dội thành tiếng gào thét. Ông quyết định phải chửi, nhưng không chửi vòng vo, vông khống, ông chửi thẳng, không chỉ chửi thẳng, ông còn kêu đối tượng, thậm chí cả dòng họ thân tộc của chúng ra để nghe ông chửi. Ông không chỉ chửi, ông vừa chửi vừa kể tội chúng, và sau cùng, ông nguyền rủa, những lời nguyền rủa vô cùng độc địa.
Tôi tự hỏi, với một cảm xúc khốc liệt như thế, trong thơ, thì cái thiện ở đâu, cái đẹp ở đâu? Tính nhân văn ở đâu? Lương tri con người ở đâu?
Hay, khi đặt những tiêu chí có vẻ cao đẹp đó ra cho thơ – cho thi ca – của một tâm hồn bị tổn thương đến tận cùng như Trần Vàng Sao thì chúng ta đang bắt đầu cho một sự dối trá khác?
Nam Đan
*
.
Bài thơ: tau chưởi
tau tức quá rồi
tau chịu không nổi
tau nghẹn cuống họng
tau lộn ruột lộn gan
tau cũng có chân có tay
tau cũng có đầu có óc
có miệng có mắt
có ông bà
có cha mẹ
có vợ con có ngày sinh tháng đẻ
có bàn thờ tổ tiên một tháng hai lần
rằm mồng một hương khói bông ba hoa quả
tau đầu tắt mặt tối
đổ mồ hôi sôi nước mắt
vẫn đồng không trự nõ có
suốt cả đời ăn tro mò trú
suốt cả đời khố chuối Trần Minh
kêu trời không thấu
tau phải câm miệng hến
không được nói
không được la hét
nghĩ có tức không
tau chưởi
tau phải chưởi
tau chưởi bây
tau chưởi thẳng vào mặt bây
không bóng không gió
không chó không mèo
mười hai nhánh họ bây đem lư hương bát nước
giường thờ chiếu trải sắp hàng một dãy ra đây
đặng nghe tau chưởi
tau kêu thằng khai canh khai khẩn tam đợi mười đời
cao tằng cố tổ ông nội ông ngoại cha mẹ chú bác cô dì
con cháu thân hơi cật ruột bây tau chưởi
tau chưởi cho tiền đời dĩ lai bây mất nòi mất giống
hết nối dõi tông đường
tau chưởi cho mồ mả bây sập nắp
tau chưởi cho bây có chết chưa liệm ruồi bu kiến đậu
tam giáo đạo sư bây
cố tổ cao tằng cái con cái thằng nào móc miếng cho bây
hà hơi trún nước miếng cho bây
bây ỉ thế ỉ thần
cậy nhà cao cửa rộng
cậy tiền rương bạc đống
bây ăn tai nói ngược
ăn hô nói thừa
đòn xóc nhọn hai đầu
ngậm máu phun người
bây bứng cây sống trồng cây chết
vu oan giá hoạ
giết người không gươm không dao
đang sống bây giả đò chết
người chết bây dựng đứng cho sống
bây sâu độc thiểm phước
bây thủ đoạn gian manh
bây là rắn
rắn
toàn là rắn
như cú dòm nhà bệnh
đêm bây mò
ngày bây rình
dưới giường
trên bàn thờ
trong xó bếp
bỏ tên bỏ họ cha mẹ sinh ra
bây mang bí danh
anh hùng dũng cảm vĩ đại kiên cường
lúc bây thật lúc bây giả
khi bây ẩn khi bây hiện
lúc người lúc ma
lúc lên tay múa ngón sủi bọt mép gào thét
lúc trợn mắt khua môi múa mỏ đả đảo muôn năm
lúc như thầy tu vào hạ
lúc như con nít đói bụng đòi ăn
hai con mắt bây đứng tròng
bây bắt hết mọi người trứơc khi chết phải hô
cha mẹ bây ông nội ông ngoại bây tiên sư cố tổ bây
sống dai đời đời kiếp kiếp
phải quỳ gối cúi đầu
nghe bây nói không được cãi
phải suốt đời làm người có tội
vạn đợi đội ơn bây
đứa nào không nghe bây hớt mỏ chôn sống
thằng nào không sợ bây vằm mặt thủ tiêu
bây làm cho mọi người tránh nhau
bây làm cho mọi người thấy nhau nhổ nước miếng
đồ phản động
đồ chống đối
đồ không đá bàn thờ tổ tiên
đồ không biết đốt chùa thiêu Phật
thượng tổ cô bà bây
mụ cô tam đợi mười đời bây
tau xanh xương mét máu
thân tàn ma dại
rách như cái xơ mướp chùi trách nồi không sạch
mả ông bà cố tổ bây kết hết à
tụi bây thằng nào cũng híp mắt hai cằm
bây ăn chi mà ăn đoản hậu
ăn quá dã man
bây ăn tươi nuốt sống
mà miệng không dính máu
người chết bây cũng không chừa
năm năm mười năm hai mươi năm
xương chân xương tay sọ dừa vải liệm`
bây nhai bây khới bây mút
cả húp cả chan bây còn kêu van xót ruột
bao nhiêu người chết diều tha quạ rứt xương
khô cốt tàn dọc bờ dọc bụi giữa núi giữa rừng
để bây xây lăng đắp mộ dựng tượng dựng đài cho
cha mẹ cố tổ bây
hỡi cô hồn các đảng
hỡi âm binh bộ hạ
hỡi những kẻ khuất mặt đi mây về gió
trong am trong miếu giữa chợ giữa đường
đầu sông cuối bãi
móc họng bóp cổ móc mắt bọn chúng nó
cho bọn chúng nó chết tiệt hết cho rồi
bây giết người như thế
bây phải chết như thế
ác lai thì ác báo
tau chưởi ngày chưởi đêm
mới bét con mắt ra tau chưởi
chập choạng chạng vạng tau chưởi
nửa đêm gà gáy tau chưởi
giữa trưa đứng bóng tau chưởi
bây có là thiền thừ mười tám con mắt tau cũng chưởi
mười hai nhánh họ bây
cao tằng cố tổ bây
tiên sư cha bây
tau chưởi cho bây ăn nửa chừng mẻ chai mẻ chén
xương cá xương thịt mắc ngang cuống họng
tau chửi cho nửa đêm oan hồn yêu tinh ma quỷ
mình mẩy đầy máu hiện hình vây quanh bây đòi trả đầu trả chân trả tay trả hòm trả vải liệm
tau chưởi cho cha mẹ bây có chết cũng mồ xiêu mả lạc
đoạ xuống ba tầng địa ngục bị bỏ vào vạc dầu
tau chưởi cho cha mẹ bây có còn sống cũng điên tàn
đui què câm điếc làm cô hồn sống lang thang đầu đường xó chợ
bốc đất mà ăn xé áo quần mà nhai cho bây có nhìn ra
cũng phải tránh xa
tau chưởi cho con cái bây đứa mới đi đứa đã lớn
sa chân sẩy tay đui què sứt mẻ nửa đòi nửa đoạn
chết không được mà sống cũng không được
tau chưởi cho dứt nọc dòng giống của bây cho bây chết sạch hết
không bà không con
không phúng không điếu
không tưởng không niệm
không mồ không mả
tuyệt tự vô dư
tau chưởi cho bây chết hết
chết sạch hết
không còn một con
không còn một thằng
không còn một mống
chết tiệt hết
hết đời bây
Trần Vàng Sao
*
2)- Người đàn ông bốn mươi ba tuổi nói về mình
- tôi tuổi tỵ
năm nay bốn mươi ba tuổi
thường không có một đồng trong túi
buổi sáng buổi chiều
thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật
trong nhà ngoài sân với hai đứa con
cây cà cây ớt
con chó con mèo
cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê
cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô
thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn
hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết
một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa
miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ
cũng không có chi phiền
vấn một điếu thuốc hút
hai ba lần tắt đỏ
rồi nửa chừng rách giấy
bạn bè gặp nhau
cho uống một ly cà phê
một lần
qua hai lần phải tránh
không phải ai cũng nghĩ như mình
nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục
đưa tay cầm lấy
miệng nói không được 2.
tôi thấy tôi như người tù được thả rông
lang thang giữa đường giữa phố
nhìn hết mọi người
xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không
tôi đi lui
tôi đi tới
phố phường đông chật
tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ
chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng
tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc
lấy chân hất một hòn đá
cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường
rồi đi về
qua cầu dép sút một quai
tôi không muốn nhớ gì hết 3.
tôi ngồi trên hòn đá trước nhà
buổi chiều không có một con chim đậu trên cây
đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân
đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chưởi thề
những người đi bán về nói chuyện to
hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối
qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa
tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ
trong gió có mùi rơm cháy
tôi không biết làm gì hết
tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát
đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua
tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ
hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về
trời còn lâu mới tối
tôi đi gánh một đôi nước uống 4.
tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình
không định được ngày mai
có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai
cái kẹo gừng
có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ
lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
mả cha cuộc đời quá vô hậu
cơm không có mà ăn
ngó lui ngó tới không biết thù ai
những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất 5.
lâu ngày tôi thấy quen đi
như quen thân thể của mình
tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
buổi chiều không có cơm ăn
những con ruồi ăn nước mũi khô trên má
những đứa đau quan sát những con chuột
chết lòi ruột ở bến xe đò
những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em
con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn
người điên ở trần đứng làm thinh
giữa trời mưa ngoài chợ
những ngày hết gạo hết tiền hết củi
muối sống không còn một hột của tôi
những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
hai mắt tôi mở to
đầu tôi cúi thấp
miệng tôi há ra
những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
dồn cứng chật cuống họng nói thật lúc này tôi muốn được say rượu
họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng 6.
nhiều khi tôi quá chán
chân tay rã rời
đầu óc đau nhức
không muốn làm gì hết
mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết
để đất đá lá cây đầy nhà
tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ
dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác
nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố
bạn bè có đứa giàu đứa nghèo
đứa ngụy đứa cách mạng
đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết
đứa không có được một cái áo lành
đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm
trở về xách một cái bị lát
mặt cắt không có một hột máu
đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn
chờ khách ở bến xe
đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm
có đứa râu tóc dài che kín mặt
có đứa tàn không nhớ mình tên chi
có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam
ăn chợ ngủ đường
mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc
hết chuyện nói hai đứa con đi chơi về cười nói
đứa nhỏ bắt tôi đánh trống
cho nó làm ông địa múa thiên cẩu 7.
cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre
tôi đánh
múa đi các con
này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu
và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền
múa đi các con
cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được
ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha
tôi vỗ tay hoan hô
và không biết mình có nhớ ra được
cái mặt ông địa không.
Trần Vàng Sao
Tháng chín 1984
*
3)- Bài thơ của một người yêu nước mình
Buổi sáng tôi mặc áo đi giày
ra đứng ngoài đường
Gió thổi những bông nứa trắng bên sông
Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé
Tôi yêu đất nước này như thế
Mỗi buổi mai
Bầy chim sẻ ngoài sân
Gió mát và trong
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
Tôi vẫn sống
vẫn ăn
vẫn thở
như mọi người
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tàu.
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thuở tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ
Ngày hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
Sống qua ngày nên phải nghiến răng
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười
Những buổi trưa buổi tối
Ngồi một mình hay khóc
Vẫn thở dài mà không nói ra
Thương con không cha
Hẩm hiu côi cút
Tôi yêu đất nước này xót xa
Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
Thương tôi nên ở góa nuôi tôi
Những đứa nhà giàu hằng ngày chửi bới
Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc,
như cho một đứa hủi
Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới
Thắp ba cây hương
Với mấy bông hải đường
Mẹ tôi khóc thút thít
Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người
Con nó còn nhỏ dại
Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng
Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những năm dài thắp đuốc đi đêm
Quen thân rồi không ai còn nhớ tên
Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
Áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Giành từng lon gạo mốc,
Từng cọng rau hột muối
Vui sao khi con bữa đói bữa no
Mẹ thương con nên cách trở sông đò
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
Đêm nào mẹ cũng khóc
Đêm nào mẹ cũng khấn thầm
Mong con khôn lớn cất mặt với đời
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi
Tôi yêu mẹ tôi áo rách
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu.
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc mỗi to,
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa đông chưa thấy mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước
Chim đậu trên cành chim không hót
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may
Tôi yêu đất nước này những buổi mai
Không ai cười không tiếng hát trẻ con
Đất đá cỏ cây ơi
Lòng vẫn thương mẹ nhớ cha
Ăn quán nằm cầu
Hai hàng nước mắt chảy ra
Mỗi đêm cầu trời khấn phật, tai qua nạn khỏi
Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất nước này như thế
Như yêu cây cỏ ở trong vườn
Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
Nuôi tôi thành người hôm nay
Yêu một giọng hát hay
Có bài mái đẩy thơm hoa dại
Có sáu câu vọng cổ chứa chan
Có ba ông táo thờ trong bếp
Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
Thuở tóc kẹp tuổi ngoan học trò
Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
Trong bước chân chim sẻ
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
Hay nói chuyện huyên thuyên
Chuyện trên trời dưới đất rất lạ
Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá
Cứ hay cười mà không biết có người buồn.
Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
Ngó cây cam cây vải
Thương mẹ già như chuối ba hương
Em chưa buồn
Vì chưa rách áo
Tôi yêu đất nước này rau cháo
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
Áo đứt nút qua cầu gió bay
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốt củi trên rừng cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu rau éo rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng.
Tôi đi hết một ngày
Gặp toàn người lạ
Chưa ai biết chưa ai quen
Không biết tuổi không biết tên
Cùng sống chung trên đất
Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
Cùng có chung tên gọi Việt Nam
Mang vết thương chảy máu ngoài tim
Cùng nhức nhối với người chết oan ức
Đấm ngực giận hờn tức tối
Cùng anh em cất cao tiếng nói
Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do
Bữa ăn nào cũng phải được no
Mùa lạnh phải có áo ấm
Được nói cười hát ca yêu đương không ai cấm
Được thờ cúng những người mình tôn kính
Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định.
Tôi trở về căn nhà nhỏ
Đèn thắp ngọn lù mù
Gió thổi trong lá cây xào xạc
Vườn đêm thơm mát
Bát canh rau dền có ớt chìa vôi
Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái tử
Đất nước hôm nay đã thấm hồn người
Ve sắp kêu mùa hạ
Nên không còn mấy thu
Đất nước này còn chua xót
Nên trông ngày thống nhất
Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam
Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc
Lòng vui hôm nay không thấy chật
Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất.
.
Trần Vàng Sao
19 Tháng 12 năm 1967
4)- Bài thơ “Tự hỏi” của Lão Báng
Tự Hỏi!
Nhiều lúc không biết làm chi,
Tôi ngồi một mình suy nghĩ.
Ủa, sao đảng nói ta đánh Mỹ
Vì nó bóc lột nhân dân!
Kêu dân hy sinh đánh, đánh, đánh…
Đánh cho đến người cuối cùng,
Mỹ đi… bây giờ rước trở lại?
Nhiều lúc tôi cũng hay tự hỏi:
Ủa, ngộ ghê “đảng quanh vinh?”
Đảng nói lãnh đạo toàn dân,
Đảng kêu dân hy sinh,
Đánh, còn cái lai quần cũng đánh.
Để đem dân đến cơm no áo ấm,
Bây giờ dân mới thấm,
Dân chỉ còn cái lai quần!
Dân tôi khổ, dân tôi nghèo
Đã không đủ ăn lại thêm sưu cao thuế nặng
Thời Tây đô hộ cũng không khổ như giờ
Nhưng có nhiều người không thấy
Tại sao? Có ai hỏi Tại sao?
Có ai biết xin làm ơn cho tôi biết.
Không nói, chắc các bạn cũng biết
Này là thằng lú, đó là đầu niễn, kia là ngu
Là những tên do người dân dặt
Dân ta suy nghĩ trật.
Dân lú chớ thằng đó không lú,
Dân ta ngu chớ thằng đó không ngu,
Dại ngu sao nhà cao cửa rộng?
Lú lẫn mà càng lúc càng giàu?
Quyền lực tóm thâu, trong khi dân đói?
Có người nói “Đất nước đang đi lên!”
Nè, coi kìa nhà cao tầng như nấm
Đường phố xe cộ quá nhiều
Đâu thua kém Thái, Hàn, Sing…
Đất nước mình số Một Đông Nam Á
Có nước nào làm được cái bánh chưng Chà Bá?
Có nước nào đạt ‘Guinness’ nhiều như ta?
Trời ơi! tôi kêu trời không thấu!
Hãy nói giùm cho dân tôi
Chuyện thiết thực là có cái chi ăn
Quần áo cho đủ mặc
Trẻ thơ có trường để học
Đào tạo thật nhiều nhân tài
Cuộc sống phải đều hoà
Văn minh và tiến bộ
Có Độc lập và Tự do
Thực phẩm không nhiễm độc
Môi trường phải an toàn…
Và nhiều chuyện phải làm
Đừng thấy lợi trước mắt.
Sống cần có nghĩa có tình.
Thiệt tội cho dân mình
Thua cả Lào và Campuchia!!!
Ngồi không tôi tự hỏi,
Làm được chi cho quê hương?
Câu trả lời thiệt lòng,
Hết sức, chỉ còn nước mắt.
Lão Báng
Tháng Chín, hai mươi mười bảy.
.
Trần Văn Giang (sưu tầm)
.