Tiếng Lóng Sài Gòn
.
Lời giới thiệu của người sưu tầm
Đúng hay sai còn tùy thẩm định của mỗi độc giả. Người sưu tầm là dân Bắc kỳ di cư 54, sống ở Sài gòn cho tới khi tan hàng năm 1975 mà nhiều chữ “lóng Sài gòn” ghi lại ở dây, chưa hề nghe thấy bao giờ!?
TVG
*
Một thời, một nơi chốn nào đó, trong đời sống ngôn ngữ dân gian lại nảy sinh ra một số tiếng lóng, một số thành ngữ, một câu hát nhại theo câu hát chính phẩm, hầu hết là để châm biếm, tạo nên nụ cười, hay có khi là để răn đe, tìm sự hoàn thiện trong cuộc sống, chúng chỉ sống một thời rồi tự biến mất, nhường chỗ cho đoạn đời “tiếng lóng” khác đến thay thế. Do đó, việc ghi chúng lại để đọc vui chơi hay phục vụ nghiên cứu văn học dân gian, chỉ có giá trị, khi ghi rõ định vị địa lý và thời gian.
Tỷ như Sài Gòn vào thập niên 60, thịnh hành một tiếng lóng “sức mấy” để thay nói bất lực hay chuyện không thể. Phổ biến đến nỗi, một nhạc sĩ đã chọn làm đề tài cho một bài hát đường phố “Sức mấy mà buồn, buồn chi bỏ đi Tám.”
Những câu chuyện thuộc loại tiếng lóng đó xuất hiện vào thời buổi Sài Gòn nhiễu nhương, quê hương chiến tranh buồn phiền; “sức mấy” đã trở thành bút hiệu của một chuyên mục phiếm luận trên báo, sau đó một kỹ thuật gia sản xuất còi ôtô đã chế ra một điệu còi ôtô, bấm còi là kêu vang trên phố một dòng nhạc còi auto 9 nốt “tính tính tè tè, tè ti tè ti té,” làm cho đường phố càng náo loạn hơn.
Trước đó cũng từ bài ca Diễm xưa của Trịnh Công Sơn mà sinh ra tiếng lóng “xưa rồi Diễm ơi,” mỗi khi có ai lặp lại một đòi hỏi nào đó, mà người nghe muốn gạt phăng đi.
Thời các vũ trường mới du nhập Sài Gòn như Mỹ Phụng, Baccara, Tháp Ngà, thì dân chơi gọi Tài-pán tức người điều phối nhóm vũ nữ, bằng tiếng bóng “Cai gà,” gọi cảnh sát là “mã tà,” vì police (cảnh sát) hay mang cái dùi cui, tiếng Tây là “matraque,” đọc trại thành “mã tà.” Cũng từ thời thuộc địa, tiếng Tây chế ra tiếng lóng âm Việt rất nhiều như: ‘gác dan‘ tức thuê người làm bảo vệ; tiếng Pháp “gardien” đọc trại ra thành “gác-dan.” Cũng như nói “de cái đít” tức lùi xe “arriere”; tiền cho thêm người phục vụ tiếng Pháp: “pour-bois” âm bồi gọi “tiền boa,” sau này chế ra là “tiền bo.”
Cũng thời Pháp thuộc, Sài Gòn có nhiều cách nói mà đến nay không ai biết nguyên do. Tỷ như gọi ngân hàng là “nhà băng,” gọi sở bưu điện là “nhà dây thép,” mua tem dán bao thư gọi là “con cò,” còn nếu gọi “Ông cò” là chỉ cảnh sát trưởng mấy quận ở thành phố, gọi “thầy cò” tức là các ông chữa “morasse” các tòa báo do chữ “correcteur,” nhưng nói “cò mồi” là tay môi giới chạy việc, “ăn tiền cò” thì cũng giống như “tiền bo,” nhưng chữ này chỉ dùng cho dịch vụ môi giới.
Thời kinh tế mới phát triển, đi xe “auto” gọi là đi “xế hộp,” đi xe ngựa gọi là đi “auto hí,” đến thời xe máy nổ ầm ào, đi xe đạp gọi là “xe điếc,” đi nghỉ mát Vũng Tàu gọi là “đi Cấp,” đi khiêu vũ gọi là “đi bum,” đi tán tỉnh chị em gọi là đi “chim gái,” đi ngắm chị em trên phố gọi là “đi nghễ,” gọi chỉ vàng là “khoẻn,” gọi quần là “quởn,” gọi bộ quần áo mới là “đồ día / vía.” Đi chơi bài tứ sắc các bà gọi là “đi xòe,” đi đánh chắn gọi là “múa quạt,” đi chơi bài mạt chược các ông gọi là “đi thoa,” đi uống bia gọi “đi nhậu,” đi hớt tóc gọi đi “húi.” Có một số tiếng lóng từ Huế khoảng 1920 – 1950 du nhập Sài Gòn, đó là “đi đầu dầu,” tức các chàng trai ăn diện “đi nghễ” với đầu trần không mũ nón, để cái mái tóc chải dầu “brillantine” láng cóng, dù nắng chảy mỡ. Tuyệt vời gọi là “hết sẩy,” quê mùa chậm chạp gọi là “âm lịch,” hách dịch tự cao gọi là “chảnh.”
Tiền bạc gọi là “địa,”có thời trong giới bụi đời thường kháo câu “khứa lão đa địa” có nghĩa ông khách già đó lắm tiền, không giữ lời hứa gọi là “xù,” “’xù tình,” tức cặp bồ rồi tự bỏ ngang. Làm tiền ai gọi là “bắt địa,”ăn cắp là “chôm chỉa,” tương tự như “nhám tay” hay “cầm nhầm”‘ những thứ không phải của mình.
Ghé qua làng sân khấu cải lương hát bội, người Sài Gòn gọi là làng “hia mão,” có một số tiếng lóng người ngoài làng có khi nghe không hiểu. Tỷ như gọi “kép chầu,” có nghĩa là đào kép đó tuy cũng tài sắc nhưng vì một lý do nào đó không được nhập biên chế gánh hát, đêm đêm họ cũng xách “valise” trang phục phấn son đến ngồi café cóc trước rạp hay túc trực bên cánh gà, để đợi, ngộ nhỡ có đào kép chính nào trục trặc không đến rạp được, thì “kép chầu” thay thế vào ngay. “Kép chầu”phải thuần thục rất nhiều tuồng để đau đâu chữa đó.
Đào chính chuyên đóng vai sầu thảm gọi là “đào thương,” kép chính chuyên đóng vai hung tàn gọi là “kép độc.” Có một nhóm chữ lóng xuất phát từ hai nơi, một là cải lương rạp hát, hai là quanh các tòa soạn báo chí, đó là “café à la… ghi” tức uống café thiếu ghi sổ…
Vào làng báo mà tiếng lóng người Sài Gòn xưa gọi “nhật trình.” Nếu thiếu tin lấy một tin cũ nhưng chưa đăng báo để đăng lấp chỗ trống, gọi là “tin kho tiêu.” Các loại tin vớ vẩn dăm dòng từ quê ra tỉnh gọi là “tin chó cán xe,” tin quan trọng chạy tít lớn gọi là‘ “tin vơ-đét” (vedette,) nhặt từ tài liệu dài ra thành một bài gọn gọi là “luộc bài,” chắp nhiều thông số khác nguồn ra một bài gọi là “xào bài,” truyện tình cảm dấm dớ gọi là “tiểu thuyết 3 xu,” các tạp chí bình dân xoi mói đời tư gọi là “báo lá cải.” Làng nhật trình kỵ nhất là loan tin thất thiệt, lóng gọi là “tin phịa,” nhưng trong “tin phịa” còn có hai mảng chấp nhận được đó là loan tin thăm dò có chủ đích, lóng gọi là “tin ballons” tức thả quả bóng thăm dò, hay tin thi đua nói dối chỉ được xuất hiện vào đầu tháng tư, gọi là “tin Cá tháng Tư.”
Có đến bảy tiếng lóng để thay cho từ chết. Đó là “tịch,” “hai năm mươi,” “’mặc chemise gỗ,” “‘đi auto bươn,” “về chầu diêm chúa,” “đi buôn muối,” hay “hui nhị tỳ”; “nhị tỳ”thay cho nghĩa địa và “số dách” thay cho số một… đều ảnh hưởng từ ngôn ngữ minh họa theo người Hoa nhập cư.
Thời điểm truyện và phim kiếm hiệp của Kim Dung nói chung là chuyện Tầu thịnh hành, người Sài Gòn đã chế ra nhiều tiếng lóng, như ai dài dòng gọi là “vòng vo Tam Quốc,” ai nói chuyện phi hiện thực gọi là “chuyện Tề Thiên,” tính nóng nảy gọi là “Trương Phi.” Một số tên nhân vật điển hình của Kim Dung được dùng để chỉ tính cách của một người nào đó. Tỷ như gọi ai là “Nhạc Bất Quần” tức ám chỉ người ngụy quân tử, gọi là “Đoàn Chính Thuần” tức ám chỉ đàn ông đa tình có nhiều vợ bé…
Sài Gòn là đất của dân nhập cư tứ xứ, nơi tha hương văn hóa bốn phương, nên ngôn ngữ càng thêm phong phú, trong đó tiếng lóng cũng “ăn theo”mà ra đời.
Thời Mỹ đến thì một tiếng “OK Salem,” mà các trẻ bụi đời vừa chạy vừa la để xin ông Mỹ điếu thuốc. Thời gọi súng là “sén” hay “chó lửa,” dân chơi miệt vườn gọi “công tử Bạc Liêu” còn hiểu được, Sài Gòn xuất hiện nhóm chữ “dân chơi cầu ba cẳng” thì thật không biết do đâu? Có lẽ cầu ba cẳng có tên “Pallicao,” lêu nghêu 3 cẳng cao như dáng vẻ “cowboy” trong các phim bắn súng, nên mới gọi “dân chơi cầu ba cẳng?” Đó cũng là lúc các tiếng lóng như “dân xà bát,” ‘’anh chị bự,” “main jouer” tay chơi ra đời, chạy xe đua gọi là “anh hùng xa lộ,” bị bắt gọi là “tó,” vào tù gọi là “xộ khám.” Bỏ học gọi là “cúp cua,” bỏ sở làm đi chơi gọi là “thợ lặn,” thi hỏng gọi là “bảng gót.” Cũng do “scandal” chàng nhạc sĩ nổi tiếng kia dẫn em dâu là ca sĩ K.Ng. qua Nhà Bè ăn chè, để ngoại tình trong túp lều cỏ bị bắt, từ đó “đi ăn chè”trở thành tiếng lóng về hành vi ngoại tình trốn ra ngoại ô.
Cũng có một số tiếng lóng do nói lái mà ra như “chà đồ nhôm” tức là “chôm đồ nhà,” “chai hia” tức chia hai chai bia bên bàn nhậu, nó cùng họ với “cưa đôi.” Lóng thời sự loại này có “tô ba lây đi xô xích le” tức “Tây ba lô đi xe xích lô.” Trong tiếng lóng còn chất chứa ân tình. Họa sĩ chuyên vẽ tranh sơn mài đề tài lá hoa sen xuất thân xứ Ca Trù hay than “buồn như chấu cắn,” hay có người than phiền vì câu né tránh trách nhiệm với hai tiếng “lu bu” để thất hứa, nay còn có người nhấn thêm “lu xu bu” nại lý do không rõ ràng để trốn việc.
Để tạm kết thúc phần dẫn này, tôi muốn nhắc một số âm sắc Bắc Hà. Những âm sắc theo chân người Hà Nội vào Nam rồi trở thành tài sản chung của người Việt. Bắt quả tang thành “quả tó,” gọi chiếc xe Honda là “con rim,” gọi tờ giấy 100 USD là “vé,” đi ăn cơm bình dân gọi là “cơm bụi,” xuống phố dạo chơi gọi là “đi bát phố,” gọi người lẩm cẩm là “dở hơi”…
Nhưng lý thú nhất là nhờ cụ cố nhà văn Nguyễn Tuân mà Sài Gòn nay có một tiếng lóng hiện đại thay cho nhóm chũ “đi ăn nhà hàng theo American style” – tiền ai nấy trả. Đó là chữ lóng KAMA, ghép bốn chữ tắt của ‘không–ai–mời–ai’. Đi KAMA phở một cái, tức cùng đi ăn phở mà không ai mời ai, món ăn cổ truyền nhưng ứng xử là thoải mái. Vào thời văn minh hiện đại, ngôn ngữ tiếng Anh trở thành phổ biến, giới trẻ đã chế ra một tiếng khá văn hoa, như chê một ai đó chảnh, các cô nói “lemon question” tức “chanh hỏi–chảnh” – (mở ngoặc: hoặc nói chệch đi: “lê-mông-quét-trần!”)
Lê Văn Sâm
Trần Văn Giang (Sưu tầm)
*
Vài Tiếng Lóng Mới (Ở Việt Nam) (?)
– Chảnh: kênh kiệu
– Tám: nhiêù chuyện
– Vô tư (từ ngoài Bắc): nhiều (?), thoải mái (?). Ví dụ: Ăn uống vô tư nhé!
– Huệ (phát âm “quệ” mới đúng?): cải lương, “sến.”
– Vi tính (computer): làm như hay lắm, ra vẻ ta đây. Ví dụ: Thằng ấy vi tính lắm cơ, lúc nào cũng đệm tiếng Anh khi nói chuyện.
– Tinh vi ra vẻ ta đây.
– trắng phớ: nói thẳng ra đi
– Không hề: không sợ, không bị.
– Bập: Bố mày mới bập (lấy) của ông bà già một con deam( còn gọi là dem)
– Ứ chịu : không chịu
– Cực kỳ: rất đẹp
– Rước: mua Về
– Oách: trông
– Hơi bị: diễn tả mức độ hơn trung bình và dưới múc quá cỡ 1 chút. Ví dụ : Cái này hơi bị khó hiểu à nghen
– Xiềng: khi muốn khẳng định một sự việc gì mà người nói tin là chắc chắn 100%.
Ví dụ: – Mi có chắc là như vậy không?
– Xiềng.
– “Phơ” là “phê”
– Bà cố: có nghĩa là nhiều, quá. Ví dụ: Con nhỏ đó đẹp bà cố luôn; Thằng đó nói chuyện xạo bà cố.
– Củ chuối: (tiếng bắc) có nghĩa là “đểu” ví dụ: thằng đó củ chuối chết mẹ (tức là thằng đó đểu chết mẹ).
– NATO = No Action Talk Only. Ví dụ: thằng đó nằm trong khối NATO (chỉ biết nói chứ không biết làm).
– Chuồn chuồn là chỉ đàn ông, còn bươm bướm là chỉ đàn bà. Giữa giữa là hi-fi (hai-fai).
– Lác: ba xạo.
– Dẹo : có nghĩa là mồi chài ai được món đồ gì đó. Ví dụ: Con nhỏ đó mới dẹo được thằng bồ nó chiếc xe Honda.
– Nhão: ỏng ẹo, điệu đàng, làm dáng, không được tự nhiên. Ví dụ: Nhỏ đó nói chuyện nhão quá trời.
– Bèo: rẻ mạt. Ví dụ: Thằng đó mới mua được cái xe giá thiệt là bèo.
– Không có cửa: (thường chỉ áp dụng trong tình cảm) có nghĩa của chữ này là không thể nào. Ví dụ:Thằng đó muốn cua tao hả, không có cửa đâu mày.
– Rối: no way out, tình cảm của tụi nó dạo này hơi bị rối??
– MBA = Married But Available! Ví dụ: cha nội đó hả, khoái làm MBA!
– Cháy IC: nghĩa là, chịu không nổi. Ví dụ: thôi hổng giám đâu! đi xa như dzậy “cháy IC sao”?