Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc?
Tiếng ta còn thì nước ta còn!
.
Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm:
1- Đồng hóa tự nhiên, tức quá trình dân tộc A trong giao tiếp với dân tộc B, do chịu ảnh hưởng lâu dài của B mà A tự nhiên dần dần mất bản sắc của mình, cuối cùng bị B đồng hóa; đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người.
2- Đồng hóa cưỡng chế: Sự cưỡng bức một dân tộc nhỏ yếu hơn chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của một dân tộc lớn mạnh hơn; đây là một tội ác.
Đồng hóa dân tộc chủ yếu diễn ra dưới hình thức đồng hóa văn hóa, trong đó chủ thể đồng hóa thường là một nền văn hóa mạnh và tiên tiến (như đông dân hơn, kinh tế phát triển hơn, đã có chữ viết, có các hệ tư tưởng), đối tượng đồng hóa thường là nền văn hóa yếu và lạc hậu hơn. Đồng hóa ngôn ngữ là công cụ đồng hóa văn hóa thông dụng nhất, quan trọng nhất, hiệu quả nhất. Một dân tộc bị mất tiếng nói mẹ đẻ của mình và phải nói tiếng của một dân tộc khác thì không còn giữ được bản sắc dân tộc nữa.
Trong lịch sử, các nền văn hóa yếu thường bị nền văn hóa mạnh đồng hóa. Thời cổ, Trung Hoa là quốc gia đông người nhất và có nền văn minh tiến triển nhất Châu Á. Nền văn hóa Hán ngữ của họ có sức đồng hóa rất mạnh. Dân tộc Hồi ở phía Tây nước này, ngày xưa dùng chữ Ả Rập, sau nhiều năm giao lưu với người Hán cũng toàn bộ dùng chữ Hán và nói tiếng Hán. Ngay cả các dân tộc nhỏ nhưng mạnh về quân sự, sau khi thôn tính và thống trị Trung Hoa được ít lâu cũng bị nền văn hóa Hán ngữ đồng hóa.
Thí dụ dân tộc Mãn sau khi chiếm Trung Hoa và lập triều đại nhà Thanh đã lập tức tiến hành đồng hóa dân tộc Hán: Cưỡng bức đàn ông Hán phải cạo nửa đầu và để đuôi sam, phải bỏ chữ Hán mà chỉ dùng chữ Mãn làm chữ viết chính thức trên cả nước. Nhưng đến giữa đời Thanh, tức sau khoảng 100 năm thì tiếng Mãn cùng chữ Mãn đều biến mất, từ đó trở đi người Mãn chỉ dùng tiếng Hán và chữ Hán, nghĩa là họ lại bị đồng hóa ngược bởi chính nền văn hóa của dân tộc bị họ cai trị lâu tới 267 năm!
Các nước đế quốc thực dân sau khi chiếm thuộc địa đều cưỡng chế đồng hóa ngôn ngữ dân bản xứ, quá trình này diễn ra khá nhanh, nhìn chung sau 5-6 thế hệ (mỗi thế hệ 25 năm), tiếng nói của người bản xứ đã bị thay bằng ngôn ngữ của nước cai trị. Đầu thế kỷ XV, Ba Tây bị Bồ Đào Nha chiếm, chẳng bao lâu tiếng Bồ trở thành ngôn ngữ chính thức duy nhất của người Ba Tây. Nhiều thuộc địa Pháp ở Châu Phi như Bénin, Togo, Sénegan… dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính duy nhất. Năm 1918 nước ta bắt đầu dạy tiếng Pháp ở lớp cuối tiểu học, 10-20 năm sau toàn bộ học sinh trung học cơ sở trở lên đến trường đã chỉ nói tiếng Pháp, giáo viên chỉ giảng dạy bằng tiếng Pháp. Nếu cứ thế dăm chục năm nữa thì có lẽ Việt Nam đã trở thành nước nói tiếng Pháp.
Thế nhưng sau hơn 1.000 năm bị bọn phong kiến người Hán thống trị và cưỡng bức đồng hóa, dân tộc Việt Nam vẫn không bị Hán hóa, vẫn giữ nguyên được nòi giống, tiếng nói và phong tục tập quán. Đây quả là một điều kỳ diệu có lẽ chưa dân tộc nào khác làm được. Đáng tiếc là chưa thấy nhiều người quan tâm nghiên cứu vấn đề này, một thành tựu vĩ đại đáng tự hào nhất của dân tộc ta (nói cho đúng là của tổ tiên ta thôi, còn chúng ta bây giờ thua xa các cụ).
Vì sao tổ tiên ta có thể làm được kỳ tích ấy? Có người nói đó là do dân ta giàu tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, xã hội có chế do làng xã bền chặt, v.v… Nói như vậy có lẽ còn chung chung, nếu đi sâu phân tích tìm ra được nguyên nhân chinh thì sẽ giúp ích hơn cho việc phát huy các truyền thống quý báu của dân tộc ta. Thực tế cho thấy tổ tiên ta giành được thắng lợi chống đồng hóa không phải bằng đấu tranh vũ trang mà bằng tài trí.
Xin nói thêm rằng chính người Trung Hoa cũng rất quan tâm vấn đề này. Chúng tôi đã thử nêu lên mạng Bách Độ (Baidu) của họ câu hỏi “Vì sao Trung Quốc thống trị Việt Nam hơn 1.000 năm mà Việt Nam không bị đồng hóa?”
Từ hàng triệu kết quả, có thể thấy đa số dân mạng Trung Hoa đều có chung một thắc mắc lớn: Vì sao bị Trung Hoa thống trị lâu thế mà người Việt Nam vẫn không nói tiếng Tàu? Nói cách khác, họ coi đồng hóa ngôn ngữ là tiêu chuẩn đồng hóa quan trọng nhất và đều thừa nhận Trung Hoa đã không đồng hóa nổi Việt Nam. Họ tỏ ra tiếc nuối về sự kiện Việt Nam sau hơn 10 thế kỷ từng là quận huyện của Trung Hoa, từng dùng chữ Hán hàng nghìn năm mà rốt cuộc lại trở thành một quốc gia độc lập, dùng chữ Latin hóa, ngày nay là nước chống lại mạnh nhất chính sách xâm lấn Biển Đông của Bắc Kinh.
Do hiểu biết Việt Nam rất ít, thậm chí hiểu sai, hầu hết dân mạng Trung Hoa không tìm được lời giải thắc mắc trên, kể cả người tỏ ra am hiểu lịch sử nước ta. Họ nêu các lý do:
– Văn hóa Việt Nam có trình độ Hán hóa cao (?), người Việt rất hiểu và không phục Trung Hoa;
– Việt Nam ở quá xa Trung nguyên, khí hậu nóng, quan lại người Hán ngại sang Việt Nam làm việc, đã sang thì chỉ lo làm giàu, không lo đồng hóa dân bản xứ;
– Các nhân vật tinh hoa Trung Hoa như Lưu Hy, Hứa Tĩnh, Hứa Từ, Viên Huy (劉熙、許靖、許慈、袁徽) chạy loạn sang Việt Nam đã giúp nước này có nền văn hóa không kém Trung Hoa;
– Người Hán di cư đến Việt Nam đều bị người bản xứ đồng hóa v.v…
Nói chung họ đều chưa thấy, hay cố ý lờ đi nguyên nhân chính là ở tài trí của người Việt.
Nhưng họ nói người Việt Nam hiểu Trung Hoa là đúng. Do sớm hiểu rõ ý đồ thâm hiểm của phong kiến người Hán muốn đồng hóa dân tộc ta nên tổ tiên ta đã kịp thời đề ra đối sách, là đã tìm ra cách giữ gìn được tiếng nói của dân tộc mình trong quá trình bị bọn thống trị người Hán cưỡng bức học chữ Hán. Mấy nghìn năm sau, một học giả lớn của dân tộc ta tóm tắt bài học lịch sử này trong một câu nói rất chí lý: “Tiếng ta còn thì nước ta còn!”
Sau khi chiếm nước ta (203 trước Công Nguyên), Triệu Đà đã ép buộc dân ta học Hán ngữ, nhằm đồng hóa họ bằng ngôn ngữ. Có lẽ đây là thời điểm muộn nhất chữ Hán vào nước ta.[1] Sách “Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận” do Lê Tung viết năm 1514 có chép việc họ Triệu mở trường dạy người Việt học chữ Hán.[2] Về sau, tất cả các triều đại người Hán cai trị Việt Nam đều thi hành chính sách đồng hóa. Triều nhà Minh còn tìm cách tiêu diệt nền văn hóa của ta, như tiêu hủy toàn bộ các thư tịch do người Việt viết, bắt nhân tài, thợ giỏi người Việt sang Trung Hoa phục dịch.
Như vậy, dân tộc ta buộc phải chấp nhận học chữ Hán từ rất sớm (trước Triều Tiên, Nhật Bản nhiều thế kỷ). Do hiểu biết người Hán nên tầng lớp tinh hoa người Việt đã nhanh chóng nhận ra nếu cứ học như thế thì cuối cùng tiếng Việt sẽ bị thay bằng tiếng Hán, dân ta sẽ trở thành một bộ phận của Trung Hoa.
Vậy cha ông ta đã dùng cách nào để giữ được tiếng nói của dân tộc trong hơn 1.000 năm bị cưỡng bức học và dùng chữ Hán cũng như phải tiếp thu nhiều yếu tố của nền văn minh Trung Hoa? Vấn đề này rất cần được làm sáng tỏ để từ đó hiểu được truyền thống quý báu của dân tộc ta. Dưới đây chúng tôi xin mạo muội góp vài ý kiến nông cạn, nếu có sai sót mong quý vị chỉ bảo.
Đọc chữ Hán bằng tiếng Việt: Một sáng tạo xuất sắc của tổ tiên ta.
Chữ viết hình vuông là một phát minh lớn của nền văn minh Trung Hoa, được người Hán chính thức sử dụng từ đời nhà Thương (thế kỷ 16 đến 11 trước Công Nguyên), ngày nay phổ biến được gọi là chữ Hán.
Thực ra trong hơn 2.000 năm kể từ ngày ra đời, thứ chữ viết ấy chỉ được người Hán gọi là chữ 字 (tự) hoặc văn tự 文字. Đến đời Đường (thế kỷ VII) cái tên 漢字 (Hán tự, tức chữ Hán) mới xuất hiện lần đầu trong sách Bắc Sử 北史 do Lý Diên Thọ biên soạn.[3] Sau đó người Nhật và người Triều Tiên cũng gọi thứ chữ này là Hán tự: Tiếng Nhật đọc Kanji, tiếng Triều Tiên đọc Hantzu. Cho tới nay Bộ Giáo Dục Đài Loan vẫn chỉ gọi là Quốc tự 國字.
Vì thứ chữ ấy khi vào Việt Nam còn chưa có tên nên tổ tiên ta bèn đặt cho nó cái tên là chữ Nho, với ý nghĩa là chữ của người có học, bởi lẽ Nho 儒 là từ dùng để gọi những người có học. Dân ta gọi người dạy chữ là thầy đồ Nho, bút và mực họ dùng để viết chữ là bút Nho và mực Nho.[4]
Đây quả là một điều độc đáo, bởi lẽ Hán ngữ xưa nay chưa hề có khái niệm chữ Nho; tất cả từ điển Hán ngữ cổ hoặc hiện đại và các từ điển Hán-Việt đều không có mục từ Nho tự 儒字 với ý nghĩa là tên gọi của chữ Hán.
Có thể suy ra: Việt Nam thời xưa không có chữ viết (hoặc đã có chữ Việt cổ nhưng chưa hoàn thiện, chưa diễn tả được các khái niệm trừu tượng), vì thế khi tiếp xúc với chữ Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã nhận thấy đây là một phương tiện cực kỳ hữu ích dùng để truyền thông tin được xa và lâu, không bị hạn chế về khoảng cách và thời gian như cách truyền thông tin bằng tiếng nói, do đó họ đã sớm nghĩ tới việc mượn thứ chữ này làm chữ viết của dân tộc ta.
Muốn vậy dân ta phải biết chữ Hán, một thứ ngoại ngữ. Làm cho dân chúng học và dùng được một ngoại ngữ là việc hoàn toàn bất khả thi ở thời ấy. Hơn nữa chữ Hán cổ khó đọc (vì không biểu âm), khó viết (vì có nhiều nét và cấu tạo phức tạp), khó nhớ (vì có quá nhiều chữ), thuộc loại chữ khó học nhất trên thế giới.
Nói chung, mỗi chữ viết đều có một âm đọc; không ai có thể xem một văn bản chữ mà không vừa xem vừa đọc âm của mỗi chữ (đọc thầm hoặc đọc thành tiếng). Mỗi chữ Hán đều có một âm tiếng Hán; muốn học chữ Hán tất phải đọc được âm của nó. Viết chữ Hán khó, tuy thế tập nhiều lần sẽ viết được, nhưng do khác biệt về hệ thống ngữ âm, người Việt nói chung khó có thể đọc được các âm tiếng Hán.
Ngoài ra Trung Hoa là một nước rộng lớn, đông dân; cho tới trước nửa cuối thế kỷ 20 cả nước vẫn chưa thống nhất được âm đọc của chữ. Loại chữ này chỉ thể hiện ý nghĩa, không thể hiện âm đọc, cho nên nhìn chữ mà không biết cách đọc. Người dân các vùng xa nhau thường đọc chữ Hán theo âm khác nhau, thậm chí khác xa nhau, vì thế thường không hiểu nhau nói gì. Các thứ tiếng địa phương ấy ta gọi là phương ngữ, người Hán gọi là phương ngôn (方言); Hán ngữ hiện có 7 phương ngữ lớn, nhiều phương ngữ nhỏ (次方言).
Không thống nhất được âm đọc chữ Hán là một tai họa đối với người Hán. Với người nước ngoài học chữ Hán cũng vậy: Khi mỗi ông thầy Tàu đọc chữ Hán theo một âm khác nhau thì học trò khó có thể học được thứ chữ này.
Để có thể học được chữ Hán mà không cần đọc âm tiếng Hán, tầng lớp tinh hoa của tổ tiên ta đã sáng tạo ra một giải pháp xuất phát từ ý tưởng: Nếu người Hán khác vùng có thể tự đọc chữ Hán theo âm riêng của vùng, thì ta cũng có thể đọc chữ Hán theo âm riêng của người Việt.
Muốn vậy, mỗi chữ Hán được tổ tiên ta quy ước đọc bằng một (hoặc vài, tùy chữ Hán gốc) âm tiếng Việt xác định có gốc là âm chữ Hán — ngày nay gọi là âm Hán-Việt, nghĩa là mỗi chữ Hán đều được đặt cho một (hoặc vài) cái tên tiếng Việt xác định, gọi là từ Hán-Việt.
Thí dụ chữ 水 được đặt tên là chữ Thủy, âm đọc thủy khác với âm đọc shuẩy của người Hán. Chữ 色, tiếng Hán đọc sưa, ta đọc sắc. Thủy và Sắc là từ Hán-Việt, cũng là âm Hán-Việt của 水và色.
Mỗi từ ngữ Hán-Việt được chọn theo nguyên tắc cố gắng bám sát âm Hán ngữ mà tổ tiên ta từng biết.[5] Như chữ 終, âm Hán và âm Hán-Việt đều đọc chung, tức hệt như nhau; chữ 孩, Hán ngữ đọc hái, ta đọc Hài, gần như nhau. Nhưng hầu hết chữ đều có âm Hán-Việt khác âm Hán. Như 集 âm Hán là chí, ta đọc Tập; 儒 giú, ta đọc Nho. Có chữ âm Hán như nhau mà âm Hán-Việt có thể như nhau hoặc khác nhau, như 同 và 童, âm Hán đều là thúng, từ ngữ Hán-Việt đều là Đồng; nhưng 系 và 細, âm Hán đều là xi, lại có hai từ Hán-Việt khác nhau là Hệ và Tế. Chữ Hán có hai hoặc nhiều âm thì có thể có một, hai hoặc nhiều âm/từ Hán-Việt, như 都 có hai âm Hán là tâu và tu, lại chỉ có một âm/từ Hán-Việt là Đô ; 少 có hai âm Hán shảo và shao, cũng có hai âm/từ Hán-Việt là Thiểu (trong thiểu số) và Thiếu (trong thiếu niên).
Thứ chữ Hán đọc bằng âm Hán-Việt này được dân ta gọi là chữ Nho. Vì đọc chữ bằng tiếng mẹ đẻ nên chữ Nho trở nên dễ học đối với người Việt: Chỉ cần học mặt chữ, nghĩa chữ và cách viết văn chữ Hán mà không cần học phát âm cũng như học nghe/nói tiếng Hán. Vì thế thời xưa ở nông thôn nước ta không hiếm người 6-7 tuổi đã biết chữ Nho.[6] Nguyễn Trung Ngạn (1289-1370) 12 tuổi đỗ cử nhân, 16 tuổi đỗ hoàng giáp (tiến sĩ). Người không biết chữ cũng có thể học truyền miệng các tác phẩm ngắn có vần điệu, như Tam Thiên Tự.[7]
Người biết chữ Nho có thể xem hiểu các thư tịch chữ Hán, viết văn chữ Hán; tuy không nói/nghe được tiếng Hán nhưng vẫn có thể dùng bút đàm để giao tiếp bình thường với người Hán. Chỉ bằng bút đàm chữ Nho, Phan Bội Châu giao tiếp được với các nhà cải cách Trung Hoa và Nhật Bản, đưa được mấy trăm thanh niên Việt Nam sang Nhật học quân sự chính trị, chuẩn bị về nước đánh đuổi thực dân Pháp.
Cần nhấn mạnh: Vì âm/từ Hán-Việt không thể ghi âm hầu hết từ ngữ tiếng Việt cho nên cách đọc chữ Hán theo âm Việt hoàn toàn không thể biến tiếng Việt thành một phương ngữ của Hán ngữ,[8] và dân ta vẫn hoàn toàn nói và nghe bằng tiếng mẹ đẻ.
Chữ Nho chỉ dùng để viết mà thôi, và chỉ được giới tinh hoa (trí thức và quan lại người Việt) dùng trong giao dịch hành chính, ngoại giao, lễ tiết, chép sử, giáo dục, thi cử, sáng tác văn thơ. Còn ở Trung Hoa, những người nói một trong các phương ngữ tiếng Hán đều có thể dùng chữ Hán để ghi âm được toàn bộ tiếng nói của phương ngữ ấy, nghĩa là họ có thể dùng chữ Hán để ghi âm tiếng mẹ đẻ.
Dĩ nhiên cách đọc tiếng Việt chỉ có thể làm với chữ Hán, là loại chữ biểu ý (ghi ý), chứ không thể làm với chữ biểu âm (ghi âm). Ngày nay âm/từ Hán-Việt của mỗi chữ Hán có thể dễ dàng viết ra bằng chữ Quốc ngữ (một loại chữ ghi âm), nhưng ngày xưa, khi chưa có bất kỳ loại ký hiệu nào ghi âm tiếng nói, tổ tiên ta chỉ có thể truyền khẩu. Thế mà lạ thay, việc dạy chữ Nho đã được mở rộng, ở thời Nguyễn là đến tận làng, có thể suy ra tỷ lệ người biết chữ Hán của dân ta cao hơn Trung Quốc!
Chỉ bằng cách truyền miệng mà người Việt thời xưa đã tạo ra được một bộ từ Hán-Việt tương ứng với bộ chữ Hán khổng lồ – bộ chữ này trong Tự điển Khang Hy (1716) có hơn 47 nghìn chữ; Tiêu chuẩn nhà nước Trung Hoa GB18030 (2005) có 70.217 chữ; Trung Hoa Tự hải có 85.568 chữ Hán.
Quá trình tiến hành Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán kéo dài trong hàng nghìn năm, là một thành tựu văn hóa vĩ đại. Có thể phỏng đoán đó là một quá trình mở, do nhiều thế hệ người Việt thực hiện, thể hiện sức sáng tạo bất tận của tổ tiên ta.
Nhật và Triều Tiên cũng mượn dùng chữ Hán, nhưng họ tự đến Trung Hoa nghiên cứu đem chữ Hán về dùng chứ không bị ép dùng từ sớm như ta. Họ cũng đọc chữ Hán theo âm bản ngữ của dân tộc mình – giải pháp do người Việt nghĩ ra và thực hiện trước họ nhiều thế kỷ.
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng Nguyễn Tài Cẩn nói: “Cách đọc Hán Việt là một tài sản của riêng dân tộc ta. Có dùng nó khi đọc Đạo đức kinh, Kinh Thi, Sở từ… thì mới phù hợp với thói quen dân tộc, tiện lợi cho dân tộc. Theo ý chúng tôi, dùng cách đọc Hán Việt ở những trường hợp này là một điều hết sức phù hợp với khoa học. Đọc theo lối Hán Việt thì dễ hiểu hơn, bởi lẽ ngay trong tiếng Việt đã có khá nhiều tiếng Hán Việt quen thuộc, chỉ đọc lên, nghe được, là hiểu được; đọc theo lối Hán Việt thì cũng thuận tai hơn… ”[9]
Đúng thế. Thí dụ chữ 社會, người Anh biết Hán ngữ đọc “shưa huây,” người Anh không biết Hán ngữ khi nghe âm đọc ấy sẽ chẳng hiểu gì; còn người Việt biết Hán ngữ đọc “xã hội,” người Việt không biết Hán ngữ nghe đọc sẽ hiểu ngay nghĩa của chữ; âm “xã hội” thuận tai, dễ đọc dễ nhớ hơn âm “shưa huây.” Rõ ràng cách đọc Hán-Việt thật tiện lợi cho người Việt. Trong bài sau, chúng tôi sẽ nói thêm về vấn đề này.
Ngày nay mỗi chữ Hán trong tất cả các từ điển Hán-Việt đều phải ghi kèm từ Hán-Việt tương ứng. Hán-Việt Tự Điển của Thiều Chửu có kèm bảng tra chữ theo âm Hán-Việt, dùng tra chữ Hán rất tiện và nhanh hơn tra theo bộ thủ. Người có sáng kiến làm Bảng này là bà Nguyễn Thị Quy (1915-1992), em ruột Thiều Chửu, khi bà lần đầu xuất bản tự điển nói trên tại Sài Gòn năm 1966.[10]
Như vậy, bằng cách đọc chữ Hán theo âm tiếng Việt, tổ tiên ta đã thành công trong việc mượn chữ Hán để dùng làm chữ viết chính thức của dân tộc mình và gọi nó là chữ Nho. Sự vay mượn này chẳng những không làm cho tiếng Việt bị biến mất mà còn làm cho nó phong phú hơn rất nhiều, trở thành một ngôn ngữ cực kỳ linh hoạt, có thể tiếp nhận và Việt hóa hầu như toàn bộ từ ngữ mới xuất hiện trong tiến trình phát triển của loài người toàn cầu.
Chữ Nho khác chữ Hán ở phần ngữ âm: nó là chữ Hán được đọc bằng âm tiếng Việt chứ không đọc bằng âm tiếng Hán như chữ người Hán dùng. Nói cách khác, chữ Nho là chữ Hán đã được Việt Nam hóa phần ngữ âm; còn về tự dạng và nghĩa chữ thì cơ bản như chữ Hán của người Hán. Vì thế có người gọi chữ Nho là chữ Hán-Việt.
Rõ ràng nó là chữ của người Việt Nam, đã Việt Nam hóa phần ngữ âm, không thể coi là chữ của người Hán. Chữ Nho là chữ viết chính thức của dân tộc ta trong hơn 2.000 năm, kể từ thời điểm muộn nhất là bắt đầu thời Bắc thuộc cho tới khi được thay thế bằng chữ Quốc ngữ cực kỳ ưu việt, được chính các nhà Nho tiên tiến tán thưởng và đi tiên phong ủng hộ sự phổ cập Quốc ngữ.
Cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt đã đáp ứng nhu cầu giao tiếp bằng bút đàm giữa quan lại cấp thấp người Việt với quan lại cấp cao người Hán, khiến cho bọn thống trị người Hán vẫn thực thi được quyền lực cai trị dân bản xứ. Hơn nữa, cách đó làm cho việc phổ cập chữ Hán trong người Việt trở nên dễ dàng, tức đáp ứng yêu cầu dạy chữ Hán của các vương triều người Hán. Vì vậy chúng không còn lý do cưỡng chế dân ta phải học nghe/nói tiếng Trung Quốc.
Cách đọc chữ Hán như trên đã có tác dụng không ngờ là làm cho người Hán dù có cai trị Việt Nam bao lâu thì cũng không thể tiêu diệt nổi tiếng Việt và Hán hóa được dân tộc ta. Có thể là khi bắt đầu sáng tạo cách đọc ấy, tổ tiên ta chưa nghĩ tới điều đó, nhưng rốt cuộc sáng tạo xuất sắc này đã giúp dân tộc ta tránh được nguy cơ bị người Hán đồng hóa. Đây là một thành công vĩ đại!
Đáng tiếc là hiện không thấy có thư tịch nào ghi chép ai nghĩ ra và thời điểm nào xuất hiện cách đọc chữ Hán bằng âm/từ Hán-Việt. Có thể cho rằng sáng kiến đó ra đời khi chữ Hán bắt đầu vào nước ta, tức muộn nhất là khoảng thế kỷ 2 – 1 trước Công Nguyên. Có ý kiến cho rằng cách đọc Hán-Việt bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán đời Đường, là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng hai thế kỷ 8, 9.
Nếu hiểu ý kiến này theo nghĩa đến đời Đường mới xuất hiện cách đọc Hán-Việt thì e rằng khó có thể giải đáp câu hỏi: Vậy thì trong thời gian khoảng ngót 1000 năm trước đó người Việt đọc chữ Hán bằng cách nào? Đến đời Đường, người Hán đã thống trị Việt Nam được hơn 9 thế kỷ, quá thừa thời gian để họ hoàn toàn đồng hóa người Việt bằng văn hóa, ngôn ngữ, khi ấy tiếng Việt đã bị biến mất, sao còn có thể xuất hiện cách đọc Hán-Việt?
Phải chăng nên hiểu ý kiến trên theo nghĩa: đến thời Đường, cách đọc Hán-Việt được hoàn thiện nhờ học tập Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ 8 – 9.
***
Có thể kết luận: Dân tộc Việt Nam tồn tại được và không bị đồng hóa sau hơn 1.000 năm chịu sự thống trị của một quốc gia liền kề có nền văn hóa lớn mạnh là nhờ đã phát huy bản lĩnh trí tuệ của mình, thể hiện ở chỗ sáng tạo được biện pháp đọc chữ Hán bằng tiếng Việt, qua đó đã vô hiệu hóa chủ trương đồng hóa ngôn ngữ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.
Có những người Hán đã nhận ra bản lĩnh trí tuệ ấy của người Việt.
Năm 987, nhà Tống cử Lý Giác 李覺 đi sứ sang Hoa Lư, Việt Nam, được hai vị Quốc sư Khuông Việt và Pháp Thuận đón tiếp, đàm phán các vấn đề quốc gia đại sự và họa thơ. Khi về nước, Lý Giác tặng vua Lê Đại Hành một bài thơ, trong có câu: “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu 天外有天應遠照”, nghĩa là: “Ngoài trời này còn có trời khác, nên nhìn thấy.” Nói cách khác, thế giới này đâu phải chỉ có một mặt trời Trung Hoa mà còn có mặt trời Việt Nam!
Câu thơ cho thấy Lý Giác đã bước đầu nhận ra bản lĩnh trí tuệ của người Việt. Đúng thế, tổ tiên ta thật vô cùng tài giỏi, nếu không thì còn đâu giang sơn tươi đẹp này!
Nguyễn Hải Hoành
(Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội).
____
[1] Nói là “muộn nhất” vì còn có các quan điểm như: chữ Hán vào Việt Nam qua con đường giao thương hoặc truyền bá tôn giáo từ lâu trước khi nước ta bị Triệu Đà chiếm; Việt Nam đã có chữ viết từ đời Hùng Vương (Hoàng Hải Vân: Thiền Sư Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động).
[2]宋代中越文学交流述论 có câu 黎嵩 “越鑑通考總論” viết : 趙佗 “建立學校,導之經義。由此已降,四百余年,頗有似類”.
[3] Bài 汉字名称的来由 (http://blog.sina.com.cn) và một số bài khác có viết: Từ Hán tự 漢字 xuất hiện sớm trong Bắc sử, quyển 9 [biên soạn xong năm 659]. 汉字一词早出自《北史》卷九本纪第九, “章宗一”:“十八年,封金源郡王.始习本朝语言小字, 及汉字经书,以进士完颜匡、司经徐孝美等侍读”. Từ Hán tự xuất hiện nhiều trong sách Kim sử 金史 (năm 1345) đời Nguyên. Ở đời nhà Thanh (1644-1911), thời kỳ đầu do chữ viết chính thức của chính quyền không phải là chữ Hán mà là chữ Mãn (满文) nên phải dùng tên gọi chữ Hán 漢字 để chỉ loại văn tự truyền thống của người Hán, nhằm phân biệt với chữ Mãn.
.
- Sau đây là hai bài “Góp ý” của Bác Sĩ Nguyễn Hy Vọng:
Bài 1
Cái văn hóa của bọn văn nô
Gần đây bọn văn nô cộng sản bên nhà bảo rằng : VN mình có trùng hay hay chung nhiều tên họ của Tàu cho nên cái gì cũng là do Tàu mà ra cả, nếu không thì ở đâu mà ra ? từ cái xác thối bác Hồ của chúng cho đến cục cứt chim ngoài Hoàng sa đều do đó mà ra chăng ? cho nên phải để cho chúng nó hưởng lợi làm đầy tớ liếm đít ba Tàu…lý luận kiểu liếm đít Tàu phù là vậy.
Ta phải dạy cho bọn Tàu và cả thế giới loài người văn minh hiểu rằng:
“Chính tên họ của chúng nó cũng là do các tên họ của những người dân Tây tạng và Tân cương và Mông cổ và Mãn châu và cả vùng Hoa nam của các giống dân Man / Bách Việt hồi xưa mà có” vì chính chúng nó cũng công nhận là nguồn gốc của giòng giống chúng nó là : Tạng, Mãn Mông, Hồi .”
Nhưng chúng nó lờ đi cái yếu tố Man / bách Việt đã là cái nguồn cung cấp tên họ rất nhiều cho cha con nhà chúng nó đặt tên
1/ Cái văn hóa Tàu là cái thứ văn hóa: ”Ngọn giáo đi trước, thầy giáo đi sau.”
1000 năm chúng nó cai trị Giao chỉ đã bắt ép dân ta đổi họ đổi tên bao nhiêu lần rồi.
Nhưng với chừng 150 họ lớn nhỏ của người Việt xưa, thì đổ đồng mỗi thế kỷ chỉ có đổi chừng một vài cái tên họ thôi khi bị ép buộc về giấy tờ với bọn Tàu; vả lại còn biết bao nhiêu họ Việt không giống họ Tàu , 50 % họ Việt là Nguyễn, Trần, Lê, Phạm, trong khi 50% họ Tàu lại là Lý, Vương, Trương, Lưu; và biết bao nhiêu họ Mường lại càng không giống họ Tàu.
Đây là những bằng cớ hiển nhiên rằng sự ép buộc đó chẳng chứng minh được gi cho cái lập luận ngu xuẩn kia.
Pháp đô hộ VN chỉ chưa tới 100 năm mà hồi đó cũng có khá nhiều người nam bộ vô dân tây, nhưng đâu phải vì vậy mà có chung nguồn gốc với người Pháp đâu.
Cũng như ba trăm năm qua người Việt vào chiếm miền Thủy chân Lạp của người Miên, thì người Miên cũng có nhiều người lấy họ Việt cho dễ làm ăn, đâu phải vì làm một cái giấy căn cước đó mà thay đổi cái giòng máu của người Miên đâu?
Còn biết bao người Thượng miền trung Việt cũng có tên họ Việt nhưng giòng máu thì đâu phải là máu Việt.
Trần quốc Tuấn, Lê Lợi đã tiêu diệt hàng trăm ngàn thằng Tàu, nhưng ba người đó đâu có phải là giòng họ Tàu.
Bên Tàu không có họ Nguyễn và không đọc là Nguyễn bao giờ, vì xưa tiếng Việt không có dấu nhấn giọng như Tàu, chúng nó đọc là Yuon, mà nên nhớ là tất cả các nước ở đông nam Á đều gọi người Việt xưa là Yuon,
đó là thêm một bằng chứng khác về nguồn gốc Việt mà bọn Tàu chúng nó giả vờ như không biết
[Ghi Chú: Chùng 40 % người Việt có họ Nguyễn có chừng – gần 45 triệu người có họ ấy đó mà]
2/ Cái ngôn ngữ của Tàu [là trẹ âm của Chu / Châu] có đến 8 thứ khác nhau, hiện nay cũng vậy, nên kết quả là người Giao chỉ lại chỉ biết cái chữ Tàu mà cóc biết 8 cái tiếng Tàu khác nhau (theo Bs Nguyển Hy Vọng)
3/ Tiếng Việt xưa rất khác tiếng Tàu xưa về mọi đường nét nên Tàu nó không xâm lấn ta về ngôn ngữ được (theo Bs Nguyển Hy Vọng) và Bộ từ điển Nguồn gốc tiếng Việt).
4/ Hiện nay tiếng Việt của 90 triệu người vẫn không có một người Tàu nào nói hay hiểu được, nếu không chịu học !
Đó là trở ngại lớn nhất cho chúng nó; vì vậy qua 2000 năm chúng nó không đồng hóa ta được
5/ Khắp năm châu bốn bể, mọi tên họ đều có thay đổi, chứ không riêng chi cho Giao chỉ và nhà Hán (xem Wikipedia).
6/ Phi luật tân cách đây 300 năm bị Tây Ban Nha hồi đó cai trị, kết quả là người Phi lấy tên họ của Tây Ban Nha 100 %, nhưng đâu phải do đó mà giòng giống Phi là bắt nguồn từ Âu châu đâu? Rồi sau đó thì Mỹ lại cai trị Phi chỉ có 40 năm , thế mà anh chàng Phi lại đổi qua tên họ Mỹ đến 80%, lẽ tất nhiên đâu phải vì thế mà nguồn gốc dân Phi là từ Mỹ mà ra?
7/ Một trăm phần trăm châu Mỹ La tinh gồm có hơn mấy chục quốc gia với mấy trăm giống giống thổ dân xưa đâu có bắt nguồn từ giống người “Spaniards” hồi xửa hồi xưa đâu?
Nước Mexico với trên 100 triệu dân đại đa số là gốc Maya, Aztec, chứ đâu có nguồn gốc “Spaniards” đâu?
8/ Do đó, tiếng nói mà khác thì giống nòi phải khác thí dụ như giữa Tàu và Việt.
Nhưng tiếng nói có giống nhau đi nữa thì giống nòi không bắt buộc phải giống nhau, vì văn hóa bắt chước giống nhau rất dễ mà tiếng nói bắt chước giống nhau rất khó, phải học mới biết đúng100%.
“Nếu không thích múa lân hay lì xì thì có sao đâu , ta vẫn là người Việt.” Nhưng nếu ta không nói tiếng Việt được thì ta có vấn đề ngay!
9/ Nói đến dân Pháp thì ai cũng biết là họ là người Gaulois, gốc Celtic, nhưng sau đó vì ảnh hưởng quá mạnh của Latinum nên đành lòng phải bỏ tiếng Gaulois mà đi nói toàn cà tiếng Roman, và lấy họ tên Lamã 100%, vậy mà họ đâu có đổi giòng đổi giống đổi máu đổi huyết được, bọn con nít học trò Pháp vẫn phải lải nhải “nos ancêtres les gaulois, nos ancêtres les gaulois … » vì câu cái đó là đúng chứ đâu có sai !
10/ Cũng như ta là gốc Giao chỉ và Mường mà đã là một nhánh của cái chủng tộc proto Indonesian chứ đâu có phải là chung gốc Tạng Mãn Mông Hồi với tụi Tàu đâu !
11/ Toàn thể các khoa học về chủng tộc và ngôn ngữ của thế giới văn minh đều quả quyết về nhận định đó trong các Encyclopedia của thế giới / hãy xem Britanica 1988 cho đến 2010.
12/ Vì giòng giống là cái máu huyết của ta, mà tiếng nói chỉ là cái nói ra ý nghĩ con người,
cái chữ chỉ là bộ áo ta mặc vào cho tiếng nói thôi, lại càng không liên hệ chi đến nguồn gốc của ta cả.
Người viết: Bs Nguyễn Hy Vọng
Tài liệu : Wikipedia và Từ điển nguồn gốc tiếng Việt
*
Bài 2
Những chặng đường tiếng Việt
Sau đây là chuyện tình đã lỡ giữa Nguyễn thị Huế và tôi:
-Em đi ngã nớ mà anh tìm ngã ni, ngó đã tội nghiệp chưa tề!
Nàng lũi như cuốc, tôi tìm không ra là đáng kiếp “tui,” dù cho tui có lui hui lúi húi, lui cui lụi cụi, lui thui lủi thủi đi tìm đã 27 năm rồi.
Mặc may mô rứa, sau khi lờ anh đã hai ngàn năm, em lại email cho anh một phát, mà lại không bỏ dấu, vậy mà trúng phóc, phước ba đời nhà anh.
Khi gặp nhau lại, thấy em trổ mã, tui mừng hết lớn, trách em sao nỡ không bỏ dấu, tí nữa thì tui đọc không ra… thì em cười trừ:
-Tiếng Việt của mềnh dấu mô mà biểu bỏ dấu? (Làm tui xệ một cây).
–Bây giờ nói chuyện tâm tình đàng hoàng, nghe em…, vậy chớ nguồn gốc em / tiếng Việt, ở mô mà ra?”
– Con người thì phải có một chỗ mà chui ra chớ… thì tiếng nói của con người cũng phải có một chỗ mà ra.
– Vậy thì từ khi có con người mình, cái tiếng nói của mình phải đi theo mình chớ? không lẽ nó đi theo trai à?
– Ờ, anh giỏi đa, đã tìm ra được một manh mối rồi đó. Manh mối thứ nhất: Con người ở mô, tiếng nói ở nấy.” Giao chỉ hồi xưa là vùng sông Hồng bây giờ.
– Đúng, nhưng ông bà của người Giao chỉ, họ ở đâu?
–Họ gốc ở vùng hạ lưu sông Mã mà tới [xưa là sông mẹ, sông mạ, có nghĩa là sông lớn] quanh vùng Đông Sơn đó… và họ cũng ở vùng sông Cả, cũng có nghĩa là lớn, của Nghệ An… và họ cũng ở vùng sông Chu, cũng có nghĩa là lớn luôn [xem Etymology của chữ Sụ / chu trong từ điển Nguồn gốc tiếng Việt.] Hãy nhìn vùng này từ vệ tinh và đừng có tin vào những cái đường phân chia giả tạo ranh giới giữa các nước. Chỉ có núi sông biển hồ và đất đai là cái thực tại muôn đời phân chia tiếng nói [đai là tiếng Việt gốc Miên đó các bạn ơi, người Miên nói tức đai thì người Việt nói đất nước, nghĩa bóng cũng như nghĩa đen luôn, dễ sợ chưa, tức là nước, đai là đất].
Từ Đông sơn Thanh Hóa qua vùng Hoà Bình, Ninh Bình. rồi mới tới vùng sông Hồng, xưa là sông Lô, sông Cái chứ hồng chi mà hồng !
Lô và Cái đều có nghĩa là to lớn, đó. Cái vùng ấy đã nuôi nấng ông bà của mềnh từ 30 ngàn năm về trước lận, chớ còn ba bốn ngàn năm lịch sử viết lách trên giấy có nhằm nhò chi mô! Hãy xem một cái chậu ở Hoà Bình, có tuổi là 30 ngàn năm, hiện để ở “Smithsonian” đó. Dễ sợ chưa, đẹp chưa?
Huế ơi, em năm nay mấy tuổi mà đẹp dữ rứa?
-Anh này kỳ ! ‘galant’ thì không được hỏi tuổi người ta nghe.
– Rứa thì tui hỏi tới, ông bà của ông bà chúng ta… của người ở Hòa Bình đó, họ ở mô tới ?
–Anh cứ hỏi tới hoài thì tui cũng nói tới luôn, thì họ ở đó và xung quanh đó, rồi đẻ con đẻ cháu ra, họ còn ở khắp vùng Đông nam Á mênh mông và họ nói một thứ tiếng chung mà bây giờ chia ra cả thảy là 176 tiếng nói khác nhau.
[Vậy mà một nhánh nhỏ của nó là tiếng Việt nay đã trổ mã ra 90 triệu người, đông thứ 12 trong số các tiếng nói của loài người đó, ngon lành không, và đã lan ra khắp thế giới, kể từ ngày miền Nam không còn, tiếng Việt đã có tầm vóc quốc tế rồi, có nghĩa là đi đâu khắp thế giới cũng nghe thấy nó].
– Em muốn cho anh hiểu, mà này, anh có hơi chậm hiểu đó nghe anh.. rằng ta đừng có bị cái gông cùm ý nghĩ làm cho ta “đụt” đi, không còn suy nghĩ đúng đắn nữa,
Ta cứ tưởng rằng người Giao chỉ thì nói tiếng Giao chỉ, người Đông sơn thì nói tiếng Đông sơn, người Tàu thì nói tiếng Tàu, Pháp thì nói tiếng Pháp [sic] .
[thật ra thì ai cũng biết là người Pháp nói một hình thức của tiếng La tinh, đâu có nói tiếng Gaulois nữa !]
Người Việt mình thì khác hẵn, vẫn còn nói tiếng của ông bà từ mấy ngàn năm nay.
Người Tàu thì nói một thứ tiếng có gốc gác nơi tiếng Tạng, tiếng Mãn châu, tiếng Mongol xưa và tiếng Hồi / miền tây của Tân cương bây giờ … và một điều bí mật đang được bật mí lần lần, tiếng Tàu đã, qua ba bốn ngàn năm mượn khá nhiều các tiếng một của các dân tộc ở miền nam sông Dương tử mà nói mà rồi cứ khăng khăng cho là của họ, không chịu nhìn nhận là đã mượn tạm rồi lờ đi.
Cho nên mãi đến bây giờ qua bốn ngàn năm mà vẫn còn 7, 8 thứ tiếng Tàu khác nhau, không hiểu được nhau, phải viết mới hiểu nhau được, nghĩ có chán không ?
– Thôi em ơi, nói chuyện Ba Tàu nghe chán quá, nói lại chuyện tiếng Giao chỉ nghe sướng hơn.
– Thì rứa đó, qua mấy ngàn năm, ông bà chúng ta, qua tiếng nói của bà Trưng bà Triệu, xuống đến Trần hưng Đạo, Lê Lợi, rồi đời con đời cháu đời chắt, đời chiu, đời chit luôn, rồi cho đến nay, 2012, đi rải rác khắp thế giới mà vẫn còn nói tiếng nói của ông bà cha mẹ đó, mà chỉ có thay đổi chút đi thôi, “Em nói anh nghe “đã” lắm, nhưng mà bằng chứng có nhiều không” ?
Một đống bằng cớ nhét đầy họng anh luôn. Nè ! Người “tiền” Việt là người Mường , có phải không ? Phải, vậy thì hai bà Trưng là người gì? Nếu không là Giao chỉ thì cũng là Mường thôi, dù là nhánh Mường nào đi nữa trong số 17 nhánh Mường.
Mà anh có biết Mường họ cũng có chữ viết riêng từ đời xửa đời xưa không?
–Thật không, hay em tính chọc quê anh đó ?
-Không, em nói thiệt đó, xem đây một tuồng chữ xưa của người Mường người Thái ở miền nguồn của ba tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh [tài liệu nghiên cứu của tác giả , có thêm phần trích dẫn tài liệu Nguyễn đổng Chi và Trần trí Dõi]xem hình trang sau
– Sao giống như nhền nhện?!
– Cũng có hơi giống, vì đó là tuồng chữ xưa của ông bà, ý nghĩa của hai chữ nôm na là như vậy đó, vernacular, demotic, old writing.
Nôm cũng như Na đều có nghĩa là xưa, cũ, đã có từ lâu , chứ không phải là “nam.” Người Tàu xưa khi thấy tuồng chữ ấy, không hiểu là gì nhưng khi nhìn thì thấy nó giống như con nòng nọc nên gọi nó là khoa đẩu / khwa-tow là “con nòng nọc,” tiếng Tàu.
Chứ còn nôm không phải là nam mà ra… đâu, nhưng các ông Hán Việt đã hiểu lầm từ ngàn năm nayrằng nôm là nam [sic]
Cách viết tuồng chữ này còn tiến bộ hơn lối chữ “abc” của La mã nữa vì nó là syllabic nghĩa là viết sao đọc vậy theo âm tiết [trong khi tuồng chữ abc thì vô nghĩa khi viết hay đọc ra thì mấy con chữ a…b …c… bơ vơ một mình]
Cách viết này bắt chước theo tuồng chữ xưa của Ấn độ gọi là chữ devanagari [xứ của thần thánh] mà tất cả các dân tộc đông nam Á đều bắt chước viết theo [Lào, Thái, Khmer, Myanmar, Burma, Bali, và cả Chàm và Giao chỉ và Mường xưa nữa, rồi sau đó nó mất dần đi vì khi chỉ một mình Việt xưa của ta bị bọn Tàu vừa đô vừa hộ, cấm dân ta viết chữ khoa đẩu [theo nhận xét của nhà bác học Trương vĩnh Ký] và ép dạy cho ta chữ của chúng nó qua một ngàn năm rồi sau đó ta mới đặt ra chữ nôm.
Còn cái chữ Tàu thì chỉ là những hình vẽ phải ép đọc và ép hiểu, mãi đến nay vẫn là một cái gông cùm tư tưởng bằng đá [a millstone around their neck] cho bảy tám thứ tiếng Tàu không hiểu nhau được của hơn ngàn triệu người Tàu khi nói với nhau.
–Anh chịu thua em rồi đó… hiểu không nổi .
–Không nổi thì cho anh chìm xuồng luôn, người chi mà cái mặt thì khá mà cái má chữ nghĩa thì buồn hiu [tiếng Huế nói vậy đó] cứ nhìn vô mấy mẫu chữ xưa này thì biết liền, có chi mô nờ.
–Thôi mà em, tội nghiệp anh
Nàng háy tôi một phát :
-Cho đáng cái bản mặt , mấy ngàn năm ni chạy theo mấy con đĩ Tàu, rồi may cái áo nôm mà mặc vô cho tui, rồi đi nói tiếng tây bồi tây bút, , rồi làm mọi cho ba tàu lần nữa, rồi làm bồi cho mấy thằng Nga , Tàu, mấy thằng Cuba đói rách.
– Ê khoan khoan, đừng nói anh nghe, anh đây vô can, làm ăn và sống theo ông bà lương thiện mà em !
-Thì tui cũng tha thứ cho anh một lần, coi đây nè…
[Mình nghĩ thầm: coi xong mấy chữ này, muốn túi mắt túi mũi luôn, thì ra mấy lâu nay mình rớt xuống giếng như một thứ con ếch văn hoá, khung trời hiểu biết nhỏ hơn cái miệng giếng, thôi đành xưng tội lần nữa, xưng với em cũng “đã” lắm, xưng với ai đâu mà xệ !]
-Thôi đừng có ví von nữa, lo mà đánh vần lại tiếng Việt đi, kẻo mà chim bay về núi túi rồi, anh không toan liệu mà anh ngồi rứa răng.
– Lạy em cả tơi cả nón Huế, anh sức nghỉn mô còn nữa mà đánh với đá.
– Anh răng túi dạ rứa, nghe nói anh học sáng lắm mà, đánh đây là đánh cái vần, đánh cái nghĩa, cũng như đánh một sợi dây chuyền hay đánh một cái khăn đóng,
Tiếng nói của ông bà mình rất là cao sâu về ý nghĩa, nếu anh biết được năm ba chữ Pháp chữ Anh thì anh có thể dịch ra là to spell, to fit together, to match up, to fashion, to assemble, to construct, to shape up, to fabricate, to model, to to appariate, to adapt, to form, to mould , to accord, to suit together, to adjust, to harmonize … chứ còn chữ Tàu có vần mô mà đánh với đá”
-Thôi thôi, xin em, can em, you tha “me” nghe “you” ?! Anh biết em dzồi, chịu thua em dzồi từ lâu zồi, em là xố dzách, em có ní nắm.
– Anh thì cứ nói xà đùa, xà oà xá óa cho qua chuyện, cái chuyện nguồn gốc của anh em mình là lôi thôi lắm, chứ không phải như mấy ông Hán Việt ba xạo nói là tiếng Việt từ tiếng Tàu mà ra, người Việt cũng từ người Tàu mà ra, rồi khi “đủ điều kiện thuận tiện thì trở thành người Việt luôn, nói tiếng Việt luôn. [sic]
–Trời đất, ui chao, ai mà ăn nói kì cục dzậy hả em?
– Họ chết hết rối tha cho họ đó đừng quậy họ lên nữa chi, mea culpa giùm cho họ, xấu hỗ lắm.
[Nói nhỏ, thấy cái miệng em Huế thương lắm, cứ ưng cắn một cái hai cái, mà sợ em cắn lại cho hai ba cái, rồi mình chịu hết nổi, sức nghĩn mô nữa mà học chữ khoa đẩu với em, thì mình mất cả chì lẫn chài… nên chịu phép ngồi nín khe như con cá nghe kinh của Chu mạnh Trinh mà nghe em giảng bài… nghe giảng không ngán mà ngán cái vụ em “bắt trả bài” thì ớn vì cô giáo quá dễ thương!]
Bs Nguyễn Hy Vọng