Văn Hóa Cầm Nhầm
.
Tạm quên bệnh cúm heo, cúm gà, cúm bà… bệnh dịch nghiêm trọng của thời đại là bệnh “cầm nhầm.”
Thật ra “cầm nhầm” chỉ là một tiếng lóng không có liệt kê trong tự điển Việt Nam đứng đắn. Theo cá nhân tôi, “cầm nhầm” là một động từ được hiểu theo nghĩa bình dân giáo dục, bên ngoài lớp học là:
“Vô tình (?) lấy làm của riêng những cái gì không phải của mình.”
Cầm nhầm cũng được dùng như một lời giải thích thật dễ thương, vô tội, vì cái nghĩa “nhầm,” “chỉ vô tình thôi chứ có phải cố ý (!) gì đâu mà làm ầm lên?”
Lời giải thích dễ thương này dễ dàng được thông cảm, dễ !!!được tha thứ một khi hành động “cầm nhầm” bị phát giác, bị lật tẩy…
Trong khuôn khổ bài này, người viết xin bàn một cách giới hạn sự “cầm nhầm” sáng kiến và tư tưởng trên lãnh vực tạm gọi là “sản phẩm nghệ thuật và trí tuệ,” cũng xin phép góp một vài ý kiến về việc “cầm nhầm tên tuổi” người khác.
Tùy giá trị (tính ra hiện kim hoặc giá trị tinh thần, tim óc…) của sự vật bị lấy đi làm của riêng không xin phép trước (hoặc đã có xin phép rồi nhưng sở hữu chủ đã từ chối, không bằng lòng cho phép sử dụng!) và cũng tùy hoàn cảnh, cách hành động và cường độ nghiêm trọng, “cầm nhầm” còn có các tên gọi khác từ lịch sự, thanh nhã, rất ngây thơ vô tội đến xuồng xã trắng trợn như: đỡ nhẹ, thuổng, trộm, rinh ẩu, chôm, chỉa, đạo, ăn cắp, ăn cướp…
Để định nghĩa cho trọn vẹn hơn, tôi xin mạn phép được bổ túc thêm một chút vào ý nghĩa của chữ “cầm nhầm” như sau:
– Sửa chữa hoặc thay đổi sản phẩm, sáng kiến hay tư tưởng của người khác.
– Trực tiếp “cóp-pi,” sử dụng, cho mục đích cá nhân, những sáng kiến, tư tuởng của người khác rồi lại mập mờ ấm ớ không liệt kê, không khai báo nguồn gốc cho rõ ràng.
– Đưa ra một vấn đề, một sản phẩm, một tác phẩm… rồi tự quảng cáo là “mới” và “nguyên thủy” nhưng thực ra đã sửa chữa từ sáng kiến hay tư tưởng đã có sẵn, đã được biết từ truớc.
– Thuần túy ăn cắp; nếu võ lực có đi kèm theo sự ăn cắp thì được gọi là cướp, ăn cướp.
Như vậy, “cầm nhầm” cũng chỉ là một hình thức ăn trộm tài sản, trí tuệ của người khác một cách lén lút nhưng không kém phần nghiêm trọng…
Trên phương diện pháp lý, “cầm nhầm” là một tội phạm (Crime) tương đương với “lường gạt” (Fraud): Lấy của người khác một cách trái phép (Stealing); và sau đó khai gian, báo gian là của mình (Giving false report).
“Cầm nhầm,” nếu được khảo sát cho thật kỹ, là cả một công trình, sự tính toán, nghiên cứu kỹ lưỡng của hai giai đoạn: tiến (lấy trộm) và thoái (sắp đặt sẵn lời giải thích nếu bị phát giác).
Người biết cách “cầm nhầm” phải là người vừa thông minh, vừa gian sảo, vừa tham lam… Trong trường hợp không bị phát giác (rất hiếm!) người “cầm nhầm” giỏi sẽ trở thành nổi tiếng hoặc giầu có chỉ trong một thời gian ngắn vì đã đốt giai đoạn, đi đường tắt trên công sức và trí tuệ của người khác.
Thời buổi tân tiến này, nhờ các kỹ thuật khoa học điện toán dễ dàng, mau chóng và thuận tiện, vấn đề “cầm nhầm” còn sâu, dầy và tràn lan hơn lúc trước khi cuộc cách mạng tin học ra đời. Chỉ cần một hai cái “tìm kiếm” (Googling search) và vài cái “bấm con chuột” (Mouse clicks) một tay “cầm nhầm” không cần phải chuyên nghiệp cũng có khả năng “Cắt và Dán” (Cut & Paste) vài ngàn trang giấy viết tay dễ như ăn “cơm sườn!”
Muốn đặt một nguyên tắc căn bản dùng để thẩm định vấn đề “cầm nhầm” tôi nghĩ không có gì chính xác hơn là nhìn vào các tài liệu có ghi chép các mốc thời gian sự xuất hiện lần đầu tiên của các “sản phẩm nghệ thuật và trí tuệ.” Từ các mốc đó, chúng ta có thể suy luận hay kết luận là “Cái nào là ‘gốc’? Cái nào là ‘đạo’?” “Ai ‘cầm nhầm’ của ai?”
1- Cầm nhầm Âm nhạc
Trước tiên, tôi đặt một câu hỏi nghe hơi lạ tai và xin quí vị độc giả quan tâm cho thêm ý kiến: “Người sáng tác nhạc cần phải có đạo đức hay không?”
Đạo thơ viết thành nhạc, đạo nhạc (melody), đạo lời nhạc (lyrics)… thấy nhan nhản trong sinh hoạt âm nhạc, trong đời sống hàng ngày chung quanh chúng ta. Trong tiết mục “cầm nhầm thơ – âm nhạc” phải bàn về 3 nhân vật tiêu biểu: Pham Duy, Diệu Hương và Bảo Chấn.
Phạm Duy
Trên địa bàn sáng tác nhạc, có nhiều cảnh huống “cầm nhầm lời thơ” của người khác rồi “quên” không để tên tác giả vào… Nội cái mảng “cầm nhầm lời thơ” này thôi, có lẽ nhạc sĩ tên tuổi Phạm Duy nổi tiếng nhất.
Duyên Anh khi còn sống, đã có lần nói:
“… đáng lẽ ra, Cụ Phạm Duy Tốn nên đặt tên cho ông con này của cụ là Phạm Duy Lợi, mới đúng!”
Xin kể thêm, trong một dịp ăn trưa với Phạm Duy ở Orange County (có mặt cả Duy Cường con trai Phạm Duy), anh bạn tôi là nhạc sĩ Mai Anh Việt có ghi nhớ (nguyên văn) câu chuyện trao đổi với Phạm Duy 20 năm trước đây như sau:
Khi nghe Phạm Duy than phiền với Mai Anh Việt về sự thất thoát thính giả ở hải ngoại với loại nhạc do Phạm Duy sáng tác.
“Việt ơi, phải làm sao cho bọn trẻ bên này nó tiếp tục cha chú nghe nhạc mình viết, chứ cái đà này…”
Mai Anh Việt cũng chẳng biết nói gì, bèn an ủi:
“Dù sao thì sự đóng góp về văn hoá của bác đã quá đủ, đâu cần…”
Phạm Duy bực dọc, ngắt ngang:
“Văn hoá cái con mẹ gì! Tôi chỉ làm thương mãi. Đứa nào trả tiền thì tôi làm! (sic)”
Nên biết đầu thập niên ‘70 là giai đoạn mà miền Nam Việt Nam đang có những nỗ lực chống cộng rất sôi bỏng; những bất trắc chiến tranh, ngỡ ngàng về tương lai của tuổi trẻ thanh niên Việt Nam lên cao điểm; các bài hát nổi tiếng của Phạm Duy sáng tác được ưa chuộng rộng rãi và có ảnh hưởng văn hóa, chính trị sâu đậm trong dân gian, đều lọt vào thể loại “cầm nhầm lời thơ.”
Đầu tiên Phạm Duy đã “đỡ nhẹ” gần nguyên con bài thơ “Để trả lời một câu hỏi” của thi sĩ Linh Phương, rồi viết thành bản nhạc bất hủ “Kỷ vật cho em.”
Bài thơ “Để trả lời một câu hỏi” khởi đăng trên trên trang thơ văn của tờ báo “Độc lập” của thi sĩ Trần Dạ Từ vào tháng 2 năm 1970.
Năm 1971, Pham Duy đã “sáng tác” và “phổ biến” bài nhạc “Kỷ vật cho em” dùng lời thơ của bài “Để trả lời một câu hỏi” mà tên thi sĩ Linh Phương không hề được đề cập đến. Nên biết chỉ trong vòng một năm, bài “Kỷ vật cho em” rất được ưa chuộng; bởi vì chiến tranh Việt Nam trở lên khốc liệt, lan rộng qua khỏi biên giới Việt Nam, có những cuộc hành quân quy mô đẫm máu như Lam Sơn 719 (ở Hạ Lào, tháng 2 và tháng 3, năm 1971), và hành quân tại phía Đông Cam-Bốt (Snoul – tháng 5 năm 1971). Tin tức chiến sự hàng ngày kèm theo các báo cáo về số chiến sĩ VNCH thương vong đáng kể trên chiến trường thì bài hát này không chỉ là đơn thuần là một bài hát về tình yêu đổ vỡ, định mệnh oan trái của con người mà còn gây lên một không khí phản chiến cao chưa từng thấy trước đây vì lời ca có nhiều đoạn được xem là “làm nản lòng chiến sĩ,” “bất lợi cho chính nghĩa chiến đấu bảo vệ lãnh thổ…” trong cuộc chiến chống CS của quân dân miền nam Việt Nam.
Dĩ nhiên bài nhạc “Kỷ vật cho em” bán rất chạy. Phạm Duy không hề đề cập gì đến tên thi sĩ Linh Phương trong lần đầu tiên xuất bản bài hát đã đành; mà đến ngay khi Phạm Duy xuất bản bài này trong tập nhạc “Kỷ vật cho chúng ta” (do nhà xuất bản “Gìn vàng giữ ngọc” phát hành); và sau đó bán bản quyển bài “Kỷ vật cho em” cho hãng đĩa Việt Nam, thì tên thi sĩ Linh Phương vẫn bị gạt ra chẳng thấy đâu…
Nhiều tờ báo lớn, báo nhỏ như Sống, Lập trường, Sân khấu truyền hình… bắt đầu lên tiếng “bất mãn dùm” cho thi sĩ Linh Phương. Theo lời của chính thi sĩ Linh phương trong “Hồi ký Linh Phương” thì một người bạn của thi sĩ là phóng viên Thiên Hải đã đưa lên trang nhất của một tờ nhật báo (?) đại ý lên tiếng là thi sĩ tác giả của bài “Để trả lời một câu hỏi” sẽ kiện Phạm Duy ra tòa vì vi phạm tác quyền. Khi bị báo chí trực tiếp chất vấn Phạm Duy về sự “nhầm” này, thì Phạm Duy trả lời là tỉnh bơ là:
“… vì tôi không biết thi sĩ là ai? và không biết tìm ở đâu?”
Lời biện minh ngây thơ vô tội này của “bố già” Phạm Duy nghe không ổn vì bài thơ đã được đăng nhiều lần qua các báo với tên tác giả Linh Phương rành rành. Thi sĩ Linh Phương cũng cho biết là:
“… Cuối cùng đưa đến việc Phạm Duy trực tiếp tiếp xúc và đồng ý trả số tiền tác quyền 50 ngàn đồng (giá vàng lúc đó là 10 ngàn đồng một lượng).”
Sau đó các ấn bản của bài “Kỷ vật cho em” mới thấy có đề tên Linh Phương đồng tác giả với Phạm Duy.
Mời quí vị đọc bài thơ gốc: “Để trả lời một câu hỏi” của thi sĩ Linh Phương đăng trên báo “Độc lập” vào tháng 2 năm 1970:
Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời mai mốt anh về
Không bằng chiến thắng trận Pleime
Hay Đức Cơ – Đồng Xoài – Bình Giả
Anh trở về hàng cây nghiêng ngã
Anh trở về hòm gỗ cài hoa
Anh trở về bằng chiếc băng ca
Trên trực thăng sơn màu tang trắng
Mai trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Mai trở về bờ tóc em xanh
Vội vã chít khăn sô vĩnh biệt
…
Và sau đây là lời bài “Kỷ Vật Cho Em” (phát hành lần đầu) do Phạm Duy “sáng tác” như sau:
Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime,
Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã,
Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả
Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa (1),
Anh trở về trên chiếc băng ca (2)
Trên trực thăng sơn màu tang trắng (3).
Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời xin trả lời mai mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh (4)
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội vã.. Em ơi! (5)
Em hỏi anh. Em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở lại với kỷ vật viên đạn đồng đen
Em sang sông anh cho làm kỷ niệm
Anh trở về anh trở về trên đôi nạng gỗ
Anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân.
Em ngại ngùng dạo phố mùa Xuân,
Bên nguời yêu tật nguyền chai đá.
Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về nhìn nhau xa lạ
Anhh trở về dang dở đời em
Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen
Cố quên đi một lần trăn trối… Em ơi!
Em hỏi anh em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
_________________
* Lời thứ hai của bài hát sau khi Phạm Duy sửa lại (để khỏi bị chính phủ VNCH cấm hát):
(1) Anh trở về có khi là một chiếc vòng hoa
(2) Anh trở về bằng khúc hoan ca
(3) Trên trực thăng vang trời thanh vắng
Em hòi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về
Anh trở về chiều hoang trốn nắng
(4) Poncho từng phủ kín đời anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
(5) Chiếc khăn tay ngăn dòng lệ ứa…em ơi…
…
Phạm Duy đã có lần lộng ngôn là:
“… mọi người (?) chỉ hát các bài nhạc tôi viết trong lúc đi ỉa (?!)”
Chuyện “đi ỉa” là chuyện đời tư và vệ sinh cá nhân của Phạm Duy, tôi không có lý do gì cần phải bàn thêm; nhưng cái sở trường “đánh hơi trong lúc đi ỉa” đặc biệt của thiên tài Phạm Duy mới là chuyện đáng nói. Cũng năm 1971, Phạm Duy còn đánh hơi, bắt mạch được (thị trường) thị hiếu yêu nhạc của giới trẻ, tung ra một bản nhạc phổ thơ với triết lý “Có còn hơn không” của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên. Đó là bài “Thà như giọt mưa.”
Thật ra Phạm Duy đã “chôm” bài thơ “Khúc tình buồn” của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên nguyên văn như sau:
Người từ trăm năm
về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay
trùng trùng gió lộng
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Người từ trăm năm
về khơi tình động
ta chạy vòng vòng
ta chạy mòn chân
nào hay đời cạn
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Người từ trăm năm
về như dao nhọn
ngọt ngào vết đâm
ta chết âm thầm
máu chưa kịp đổ
(thà như giọt mưa
vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa
khô trên tượng đá
có còn hơn không
mưa ôm tượng đá)
Thà như giọt mưa
gieo xuống mặt người
vỡ tan vỡ tan
nào ta ân hận
bởi còn kịp nghe
nhịp run vồi vội
trên ngọn lông măng
(người từ trăm năm
vì ta phải khổ)
(“Khúc tình buồn” – Nguyễn Tất Nhiên)
Rồi viết lại thành bài hát “Thà như giọt mưa:”
Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa khô trên tượng đá
thà như mưa gió đến ôm tượng đá
có còn hơn không, có còn hơn không
có còn hơn không, có còn hơn không
Người từ trăm năm về qua sông rộng
Người từ trăm năm về qua sông rộng
ta ngoắc mòn tay, ta ngoắc mòn tay
chỉ thấy sông lồng lộng, chỉ thấy sông chập trùng
Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa khô trên tượng đá
thà như mưa gió đến ôm tượng đá
có còn hơn không, có còn hơn không
có còn hơn không, có còn hơn không
Người từ trăm năm về khơi tình động
người từ trăm năm về khơi tình động
ta chạy vòng vòng ta chạy mòn chân
nào có hay đời cạn nào có hay cạn đời
Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa khô trên tượng đá
thà như mưa gió đến ôm tượng đá
có còn hơn không, có còn hơn không
có còn hơn không, có còn hơn không
Người từ trăm năm về như dao nhọn
người từ trăm năm về như dao nhọn
dao vết ngọt đâm ta chết trầm ngâm
dòng máu chưa kịp tràn
dòng máu chưa kịp tràn
Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá
thà như giọt mưa khô trên tượng đá
thà như mưa gió đến ôm tượng đá
có còn hơn không, có còn hơn không
có còn hơn không, có còn hơn không
(“Thà như giọt mưa” – Phạm Duy)
__________
* Mời quí vị đọc lời của cả 2 bài trên để thấy và thưởng thức cái tài “ngửi” rồi “xào lại” của Phạm Duy như thế nào…
Nhạc phẩm “Thà như giọt mưa” được phát thanh liên tục mỗi ngày trên đài phát thanh Sài Gòn và trở thành một “hiện tượng” chưa hề xẩy ra trước đây trong giới thanh niên, học sinh sinh viên miền Nam tự do… Hoàn cảnh sáng tác của bài “Thà như giọt mưa” cũng y hệt như hoàn cảnh của bài “Kỷ vật cho em.” (“Đánh hơi” lúc trong đi ỉa! và “xào lại” chút đỉnh). Thành ra trường hợp này, tôi suy luận ra câu trả lời “dejà vu” của Phạm Duy có lẽ cũng lại là:
“… vì tôi không biết thi sĩ là ai? và không biết tìm ở đâu?”
Nguyễn Tất Nhiên vất vả hơn Linh Phương rất nhiều. Thứ nhất Nguyễn Tất Nhiên chỉ là một anh chàng thanh niên mới 18-19 tuổi khi bài thơ “Khúc tình buồn” bị “chôm.” Thứ hai Nguyễn Tất Nhiên không quen biết nhiều với giới báo chí truyền thông cho nên không có ai quởn để “bất mãn dùm” cho mình như trường hợp Linh Phương trước đây. Nguyễn Tất Nhiên phải chạy ngược chay xuôi “đi gõ cửa cầu cứu với giới báo chí” (nguyên văn theo lời chị Nguyễn Thị Minh Thủy, vợ cũ của Nguyễn Tất Nhiên) về vấn đề tác quyền. Cũng may, có Chu Tử của báo Sống (và một số báo khác sau đó) đã đứng về phía thi sĩ có thơ bị “cầm nhầm” phát động lại phong trào tác quyền của người làm thơ và đồng thời gây áp lực với giới làm nhạc về vấn đề tác quyền này… Kết quả Phạm Duy đã tìm Nguyễn Tất Nhiên và lên thăm thi sĩ tại nhà ở Biên Hòa để “nói một vài lời phải quấy” theo kiểu “jouer papa” chứ chuyện bồi thường chưa hề được đề cập đến trong lần gặp gỡ này. Cuối cùng gia đình thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên phải kiện Phạm Duy và hãng đĩa Việt Nam ra tòa. Kết quả phe nguyên cáo (gia đình Nguyễn Tất Nhiên) bãi nại và đồng ý nhận một số tiền bồi thường do hãng đĩa Việt Nam và Pham Duy dàn xếp.
Sau hai vụ “cầm nhầm” lớn rồi đưa đến sự nhượng bộ của Phạm Duy này, một bài thơ nổi tiếng khác của thi sĩ Vũ Hữu Định được Phạm Duy phổ thơ mà tôi không (chưa tìm ra!) nghe thấy sự phàn nàn trực tiếp nào của thi sĩ Vũ Hữu Định. Đó là bài “Còn một chút gì để nhớ.” Phạm Duy “ngửi” thấy bài này và phổ nhạc thành bài “Còn chút gì đề nhớ.” (Phạm Duy bỏ mất chữ “một” trong tựa bài). Bài hát này đã nổi tiếng và biến địa danh “Pleiku,” một thị trấn mới xa xôi ở cao nguyên sương mù, thành một nét đậm đáng ghi nhớ trên bản đồ Việt Nam:
Phố núi cao phố núi đầy sương
Phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
Anh khách lạ đi lên đi xuống
May mà có em đời còn dễ thương
Em Pleiku má đỏ môi hồng
Ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
Nên tóc em ướt và mắt em ướt
Da em mềm như mây chiều trong (Phạm Duy sửa là “Nên em…”)
Phố núi cao phố núi trời gần
Phố xá không xa nên phố tình thân
Đi dăm phút đã về chốn cũ
Một buổi chiều nào lòng vẫn bâng khuâng
Xin cảm ơn thành phố có em
Xin cảm ơn một mái tóc mềm
Mai xa lắc bên đồi biên giới (Phạm Duy sửa là “trên đồn”)
Còn một chút gì để nhớ để quên
(“Còn một chút gì để nhớ” – Vũ Hữu Định)
Ngoài ra, còn một bài thơ nổi tiếng khác mà Phạm Duy đã phổ nhạc, (tôi lấy làm lạ là mà không thấy ai “ngửi” được cái mùi “cầm nhầm” lời thơ cố hữu của Phạm Duy?), đó là bài “Mùa thu chết” (Nhạc Phạm Duy sáng tác năm 1970 – Thơ “Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho!
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau… – Ca sĩ Julie).
“Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho!
Em nhớ cho,
Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
Trên cõi đời này, trên cõi đời này
Từ nay mãi mãi không thấy nhau
Từ nay mãi mãi không thấy nhau…
Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
Em nhớ cho: Mùa Thu đã chết rồi!
Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
Vẫn chờ em, vẫn chờ em
Vẫn chờ….
Vẫn chờ… đợi em!”
Vâng! Tôi xin nói cho rõ là Phạm Duy đã có “chua” là lời thơ của Guillaume Apollinaire:
(nguyên văn)
L’adieu
Guillaume Apollinaire
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automne est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends
… Nhưng lời phần lời Việt thì Phạm Duy “tạm xem” như của chính mình(!) Trong khi, trước đó (năm 1969 cho chính xác) Bùi Giáng đã dịch bài “L’Adieu” như sau:
Lời vĩnh biệt
… Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó …
…
Bản dịch của Bùi Giáng
(“ Ði vào cõi thơ,” trang 80-82, Ca Dao xuất bản, Sàigon, Việt Nam 1969).
“Chuyện dài phổ thơ thành nhạc của Phạm Duy” đã sang trang cuối cùng…
Diệu Hương
Ở hải ngoại, ca nhạc sĩ “gia đình HO” Diệu Hương bỗng nhiên trở thành một “hiện tượng âm nhạc. ”
Thứ nhất vì nhạc của Diệu Hương nghe “có hồn” mặc dù “lời nhạc” của Diệu Hương có ý nghĩa “mông lung” theo kiểu khó hiểu của tranh lập thể Picasso; và dùng hơi nhiều sáo ngữ (!) Tôi chỉ nghe độ 3-4 bài đầu trong CD “Tình Ca Diệu Hương 1” với chủ đề “Bài tình ca cho em” (phát hành năm 2001) thì tôi đã ghi được một số chữ tạm gọi là “mông lung” như sau:
“ôi xơ xác linh hồn tôi khắc khoải,”
“bóng tối chia phôi,”
“trăm năm như ngàn năm, người cùng đá băn khoăn”
và một lô “sáo ngữ” như :
“trào dâng,”
“pha phôi,”
“đày đọa,”
“xuyến xao,”
“hoang phế,”
“quanh hiu,”
“thét gào,”
“giọt buồn…”
nghe thoáng qua thấy rất quen thuộc như đã nghe ở đâu đó rồi… giống như các từ ngữ đảo lộn ngớ ngẩn của vi-xi : “đảm bảo,” “triển khai…,”
Thứ nhì, Diệu Hương được xem như là “hàng hiếm” trong ngành viết nhạc (cũng giống như trong ngành đầu bếp, trang điểm…) mà đại đa số “thợ” giỏi là nam giới.
Về loại chữ “mông lung” và “sáo” này, Trịnh Công Sơn trước đây đã dùng rất nhiều:
“ôi tóc em dài đêm thần thoại,”
“ru em từng ngón xuân nồng,”
“rồi như đá ngây ngô,”
“nắng thủy tinh…”
… được rất nhiều người ưa chuộng và “cóp-pi” tứ tung. Trịnh Công Sơn dùng những loại chữ “mông lung” như vầy khi chúng hoàn toàn mới lạ với tai người thưởng lãm; chúng được xem như là chữ “gốc;” bởi vì Trịnh Công Sơn không “cóp-pi” (sẽ check lại sau?) của người khác.
(Xin thưa nhận định này và những giòng kế tiếp về Trịnh Công Sơn là ý kiến chủ quan và sự hiểu biết giới hạn của cá nhân người viết; sẽ có một số độc giả không đồng ý với tôi về nhận xét chủ quan này!! Tôi xin phép được ghi nhận ý kiến của độc giả để học hỏi thêm).
Thật ra, lời nhạc của Trịnh Công Sơn có rất nhiều đoạn nghe thoáng qua cứ tưởng là “mông lung” nhưng mãi về sau này có những người từng quen biết, gần gũi với Trịnh Công Sơn giải nghĩa thêm cho rõ ra, mới hiểu ra những lời “mông lung” đều có ẩn ý “thật” (real thing) chứ không phải loại “mông lung” vớ vỉn, gượng ép. Thí dụ :
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những chuyến xe
Còn đây âm vang não nề
Ngày đi đêm tới trăm tiếng mơ hồ.
…
Nhớ một người tình nào cũ,
Khóc lại một đời người quá ê chề.
…
Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không
Bàn in hơi bên ghế ngồi
Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người.
(“Nghe Những Tàn Phai” – Trịnh Công Sơn)
Tác giả bài “Văn hóa cầm nhầm” này đã có may mắn được nghe Khánh Ly trực tiếp nói (không phải qua sự ghi chép “tam sao thất bản” từ các nguồn trên mạng) là chính Trịnh Công Sơn cho Khánh Ly biết bài “Nghe Những Tàn Phai” Trịnh Công Sơn viết về “tâm sự buồn” của một cô gái làng chơi đã về già, hết thời. Lời nhạc não nùng thật chứ không phải là chuyện “mông lung” vớ vẩn như chúng ta nghĩ…
Hoặc:
Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi
Để một mai tôi về làm cát bụi
….
Ôi cát bụi phận này
Vết mực nào xóa bỏ không hay!
(“Cát Bụi” – Trịnh Công Sơn)
Thím “ô-tét-đờ-te” Đặng Tuyết Mai (vợ cũ của ông Nguyễn Cao Cầy) trong một dịp gặp gỡ văn nghệ văn gừng nào đó (?) đã được Trịnh Công Sơn giải thích và mô tả sự khai sinh và khai tử (như được ghi lại trong bài hát “Cát bụi”) ở trong các làng xã xa xôi ở miền quê Việt Nam là:
“Khi một đứa bé được sinh ra thì bố mẹ đứa trẻ báo cho làng xã biết. Người ta ghi tên đứa bé vào một cuốn sổ bằng viết mực… thế rồi khi đứa bé lớn lên sau lũy tre xanh, trưởng thành, già… nếu chết đi thì người nhà cũng báo cho làng xã biết; người ta cũng lấy cái bút gạch tên người chết trong cuốn sổ đinh này là xong một đời người.”
Chính vì vậy mà sau khi một cuộc đời được chấm dứt câu “Vết mực nào xóa bỏ không hay” là thật chứ không phải là chuyện “mông lung” như chúng ta vẫn nghĩ…
Hoặc:
… nhiều đêm thấy ta là thác đổ
Tỉnh ra có khi còn nghe.
(“Ðêm Thấy Ta Là Thác Đổ” – Trịnh Công Sơn)
Xin thưa, ông anh văn nghệ của tôi, Bác sĩ Đặng Trần Hào, một người đã tập thiền cỡ “thâm niên công vụ,” tức là thiền mỗi ngày vài giờ trong vài chục năm qua, khi hàn huyên với tôi, Bác sĩ Hào đã phải buột miệng khen Trịnh Công Sơn:
“Trịnh Công Sơn phải là sư tổ môn thiền học mới ‘đạt’ được cái trạng thái ‘thác đổ’ này.”
Vì chính bản thân Bác sĩ Hào, sau vài chục năm thiền, mỗi khi thiền xong, mở mắt ra nghe thấy trong đầu còn có “âm vang như có tiếng thác đổ.”
Thành ra “Nhiều đêm thấy ta là thác đổ” cũng là thật chứ không phải là chuyện “mông lung…”
Tôi e rằng bàn về nhạc Trịnh Công Sơn thêm một tí nữa sẽ lạc đề; chưa nói đến việc có thể bị cho đội nón cối… Bây giờ tôi xin trở lại sáng tác của Diệu Hương. Từ năm 2001 đến năm 2007, Diệu Hương phát hành liền tù tì một loạt 5 CD “Tình ca Diệu hương 1-2-3-4-5” gồm gần 60 bài hát mà bài nào nghe cũng rất “phê.” Nhưng (lại “nhưng!” Chữ “nhưng” thật tai hại!) đùng một cái, năm 2007 bắt đầu đã có tiếng “xì xèo” là Diệu Hương “đạo nhạc.”
Bài nhạc rất tiêu biểu (a signature song) được ưa chuộng của Diệu Hương là bài “Vì đó là em” (2001) có lời rất tha thiết, thành khẩn như sau:
“Không cần biết em từ đâu.
Không cần biết em ngày sau…
Yêu em khi chỉ biết đó là em… “
Bây giờ nghe lời nhạc mà nhóm Backstreet Boys hát trong bài “As long as you love me” (1997):
I don’t know who you are,
I don’t care where you come from.
As long as you love me…
Sao thấy nó giống nhau chi lạ: cũng tha thiết và thành khẩn không sai tí ti ông cụ nào? Tư tưởng lớn luôn luôn gặp nhau là vậy?!
Về giai điệu (melody) thì có nhiều người đã quả quyết 100% là bài “Tình vọng” do Diệu Hương viết năm 2004 (Tuấn ngọc hát) nghe y chang như bài nhạc “Caruso” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Ý-đại-lợi Lucio Dalla sáng tác năm 1986 (ca sĩ Lara Fabian hát). Quí vị nên tìm nghe cả hai bài (đề nghị dùng “Google search”) để thấy tại sao có người dám “quả quyết là giống 100%” như vậy.
Một số đọc giả của các diễn đàn Việt ngữ còn cho biết thêm là đã “khám phá” ra các bài nổi tiếng khác của Diệu Hương liệt kê sau đây đều có “đạo” không ít thì nhiều về nhạc (melody) hay lời (lyrics). Xin quí vị tìm xem và nghe lại để tự tìm hiểu và tự thẩm định:
– “Bài tình ca của em” sao giống y chang bài “Đêm cô đơn” của Ngoc Trọng.
– “Lặng nhìn ta thôi” giống bài “Lời gọi thiên thu” của Trịnh Công Sơn.
– “Như một lần nhớ tiếc” giống bài “Hoa sữa” của Hồng Đăng.
Ôi Diệu Hương ơi! “Mình ơi!” Có phải “mình” là “hàng hiếm” “made in china!” tìm thấy đâu đó ở “Wal-Mart…” hông???
Bảo chấn
Việt Nam (sau 1975) không có luật bảo vệ tác quyền (copy rights) cho nên “sự cố” “tình nghi cầm nhầm” “lan tỏa” rộng lớn trong mọi ngành sản xuất và sáng tác.
Riêng ngành sáng tác nhạc được các tay “nhạc sĩ” phần lớn là giới trẻ “cầm nhầm,” “cóp-pi,” “chôm…” tứ tung thiên địa từ nhạc “gốc” phần lớn từ nhạc Anh, Trung Hoa, Đại hàn, Nhật… Một khi bị giác hay có người tri hô lên là “cầm nhầm” thì cứ 10 ông nhạc sĩ trẻ có đủ 10 ông la làng theo cùng một bài ca (họ lại “cóp-pi” lẫn nhau ở phần trả lời báo chí mới óai oăm!) là:
“giai điệu giống nhau là chuyện bình thường,”
“quá sốc,”
“bị áp đặt,”
“không có cơ sở…”
Trang mạng “ngoisao.net” của Việt Nam trong ngày 19 tháng 1 năm 2005 đã liệt kê có ít nhất 70 ca khúc ở trong nước “bị tình nghi” là “đạo nhạc” từ “nhạc ngoại quốc.” Các “nhạc sĩ” ở thể loại này gồm cả những tên tuổi đương thời đang “ăn khách” ở Việt Nam như: Bảo Chấn, Phương Uyên, Quốc Bảo, Quang Huy, Lê Quang, Võ Thiện Thanh…
Trong khuôn khổ giới hạn của bài nhận định này, tôi xin nói qua về một nhạc sĩ điển hình có tên tuổi trong đám thợ “cầm nhầm” này. Đó là nhạc sĩ Bảo Chấn.
Bảo Chấn đã “sáng tác” bài nhạc thơ mộng “Tình thôi xót xa” khi nào?
Năm 1997, bài “Tình thôi xót xa” được ca sĩ Lam Trường và Hồng Nhung hát… bỗng dưng bài hát này rất được ưa chuộng và cả bài hát lẫn nhạc sĩ đều nổi tiếng… Nhưng cũng ngay sau đó thiên hạ bắt đầu bàn tán rùm lên là Bảo Chấn “cóp-pi” nhạc (melody) từ bài “Frontier” của nữ nhạc công Piano và nhạc sĩ người Nhật đã nổi tiếng quốc tế tên Keiko Matsui (tác giả của gần 20 albums nhạc Jazz). Bài “Frontier” là một bản nhạc hòa tấu nằm trong album “Chery blossom” của Cô phát hành năm 1992. Liền ngay sao đó, Bảo Chấn đã đưa ra lời giải thích với giới truyền thông báo chí trong nước rất ngon lành, nghe qua thấy rất “hợp tình hợp lý” như sau:
“Tôi cam đoan là không có chuyện ‘mượn’ giai điệu của nhạc Nhật (cho bài “Tình thôi xót xa”). Trong âm nhạc, sáng tác dựa theo ‘cảm xúc,’ và sự trùng hợp là chuyện rất bình thường. Tôi sáng tác bài ‘Tình thôi xót xa’ từ thập niên 80 dành cho bộ phim ‘Nước mắt học trò’ của đạo diễn Lý Hùynh… Tôi không dám nghĩ là phía Nhật ‘lấy’ giai điệu của tôi (!); nhưng tôi khẳng định là không hề có chuyện tôi lấy giai điệu từ họ (ám chỉ nhạc của Keiko Matsui).”
Lời giải thích thật hào sảng, oai hùng (có cả ngụ ý: “biết đâu Nhật đã ‘cóp-pi’ từ nhạc Việt!!!” Nếu lời biện minh của Bảo Chấn đúng thì thật vẻ vang cho nền âm nhạc Việt Nam…) Nhưng (lại chữ “nhưng” thật tai hại!) khi những người quan tâm nhìn kỹ vào các cuốn phim của Lý Huỳnh mà Bảo Chấn (và em là Bảo Phúc) viết nhạc nền như “Nước mắt học trò,” “Cơn lốc cuộc đời…” từ năm 1991 đến bây giờ thì chẳng thấy tăm hơi bài “Tình thôi xót xa” ở đâu cả??? Tìm kỹ càng hơn một tí nữa loanh quanh đâu đấy thì thấy bài “Tình thôi xót xa” được trình bày lần đầu tiên trong phim “Truy nã tội phạm quốc tế” của hãng phim Phương Đông (hợp tác với Đài loan) sản xuất không phải năm 1991; mà là năm 1997 (cũng là năm mà Lam Trường và Hồng Nhung hát bài này). Sau các phát giác cụ thể dựa trên các mốc thời gian này thì Bảo Chấn “khai bịnh” vào nhà thương nằm “nghỉ” một thời gian vì “gặp phải năm hạn!” Thật xui xẻo cho nhạc sĩ trẻ tài hoa muốn nổi tiếng nhanh chóng trên công sức của người khác!!! Người gian lâu lâu mắc nạn vậy mà có gì mà to chuyện!!!
Đám “hót sĩ” trong nước như Đàm Vĩnh Hưng, Quang Linh, Đan Trường… cũng cùng nhau “vô tư” “rinh” nhạc Việt do “ngụy” sáng tác từ hải ngoại đem về nước rồi tự tiện đổi tên tựa bài hát, hoặc cả tên tác giả rồi thản nhiên cho vào các “albums” của họ… Chỉ có “nghệ nhân” của “đỉnh cao trí tuệ” mới có “khả năng” “làm việc” như vậy… Đảng và nhà nước ta đã đề xuất phương châm: “Nhà ngụy ta ở! Vợ ngụy ta lấy…” thì bây giờ “Nhạc ngụy ta cũng lấy nốt” thì có tội vạ gì??? Không chừng còn được đảng và nhà nước ta ban cho huân chương “nghệ sĩ nhân dân,” “nghệ sĩ ưu tú…” Các nhạc sĩ “phản động” ở hải ngoại chỉ có nước thở dài. Chuyện kiện cáo các “hót sĩ” này có khác gì đi kiện củ khoai thối; vì luật rừng của “nhà nước ta” không có khoản nào về “tác quyền” để bảo vệ tài sản trí tuệ của chính người của “cách mạng;” nói chi đến chuyện diệu vợi bảo vệ tài sản trí tuệ của đám “ngụy sĩ…”
2- Cầm nhầm Văn chương / bài Khảo cứu
Hồ Chí Minh
Đứng đầu danh sách đạo văn có tính cách lịch sử toàn cầu là Hồ Chí Minh.
“Boác” Hồ Chí Minh, lãnh đạo “kiệt xuất” của XHCNVN, đã phát minh ra kỹ thuật “Cắt và Dán” (Cut & Paste) từ năm 1945 (tức là gần 50 năm trước khi bác “Biu gết” làm ra Window 95). “Chính sử của đảng cộng sản và nhà nước XHCN Việt Nam” đã khẳng định là “Bác Hồ” đã “tự ý soạn thảo” ra và đọc “Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” trên lễ đài sáng 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội như sau:
“Hỡi đồng bào cả nước,
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”
(Trích “Hồ Chí Minh toàn tập”)
Trong khi bản “Tuyên ngôn độc lập của Hoa kỳ” công bố năm 1776 đã được viết là:
“All the peoples on the earth are equal from birth, all the peoples have a right to live, to be happy and free.”
(Declaration of Independence of the United States of America 1776)
Những ai biết đọc và viết Anh ngữ thì thấy 2 câu Việt ngữ và Anh ngữ, nếu đem để sát bên nhau, không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên… mà là một sự sao chép tinh vi của “đỉnh cao trí tuệ.”
Về vấn đề đạo thơ, Bác Hồ đã “cắt” 4 câu thơ khác nhau của 4 thi hào nổi tiếng thành và “dán” lại thành ra bài thơ “hay nhất thế kỷ” của “Bác:” Bài thơ “Nguyên Tiêu.” (Xin mời đọc thêm chi tiết “cắt và dán” này qua bài “Đọc bài thơ Nguyên Tiêu của HCM” cũng do TVG viết đăng trong vài websites sau đây:
http://hon-viet.co.uk/TranVanGiang_DocBaiThoNguyenTieu_cuaHochoMinh.htm
Hoặc (bằng Unicode):
http://www.vietnamexodus.org/vne/modules.php?name=News&file=print&sid=3454
Giáo sư Lê hữu Mục còn biên khảo thành cả một cuốn sách dầy tựa đề: “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký” (cũng bằng Unicode):
http://groups.yahoo.com/group/NV_7/message/1085
để chứng minh rằng:
“Hồ Chí Minh chỉ là kẻ đạo văn, mượn đầu heo nấu cháo, ăn cắp nguyên con một cách lố bịch và trơ trẽn tập ‘Ngục Trung Nhật Ký’ của một người bạn tù người tầu rồi để tên mình là tác giả…”
Mục sư Tiến sĩ Martin Luther King Jr. (MLK)
Sau khi bị ám sát năm 1968, MLK, một Mục sư da đen đấu tranh cho nhân quyền – nhất là sự bình đẳng của dân da mầu – được dân da đen ở Hoa kỳ xem một như vị “Thánh tử đạo.” Trên lãnh thổ Hoa kỳ, tất cả những cái không Chân, không Thiện và không Mỹ của MLK đều bị ếm nhẹm một cách có hệ thống…
Thực ra, đã có nhiều lời đồn đại phổ biến rộng rãi từ đầu thập niên 1980 về sự đạo văn của MLK; nhưng phải chờ các bài viết về MLK (đặc biệt nhất là của Theodore Pappas) xuất hiện trên văn đàn ở Anh quốc, dân Hoa kỳ mới có cơ hội biết rõ thêm về đời tư và sự thông minh thực sự của MLK.
MLK có phải là người liên tục đạo văn của người khác không?
Các tài liệu đang có sẵn đã chứng minh điều này là đúng. Thí dụ:
– Một bài “essay” của MLK tựa đề “The Place of Reason and Experience in Finding God,” viết lúc MLK theo học môn thần học tại trường Crozer (một “college” của dân da đen, nơi MLK theo học ban Cử nhân), đã “chôm” (pirated) rất nhiều đoạn từ công trình của nhà thần học Edgar S. Brightman, tác giả của cuốn sách “The Finding of God.”
– Một luận trình khác của MLK tựa đề “Contemporary Continental Theology,” viết chỉ một thời gian ngắn sau khi MLK nhập học trường Boston University, đã “chôm” (stolen) một phần lớn (largely) từ cuốn sách viết bởi Walter Marshall Horton.
– Năm 1955, MLK trình luận án tiến sĩ về thần học tựa đề “A Comparison of the Conceptions of God in the Thinking of Paul Tillich and Harry Nelson Wieman,” đã chôm hơn 50% nội dung của luận án tiến sĩ trình trước đó với tựa đề “The Place of Reason in Paul Tillich’s Concept of God” của Dr. Jack Boozer. Sự đạo văn này còn rõ rệt một cách đáng sợ là MLK “cọp-pi” cả những câu đã “trích sai lầm” (citation errors) từ sách đệ trình luận án của Dr. Jack Boozer.
Tác giả Theodore Pappas đã lấy làm ngạc nhiên và sau đó nghi ngờ là hình như ban giảng huấn ở Boston University khi chấm luận án tiến sĩ của MLK đã không thực sự đọc bản luận án này. Nói cách khác là họ cứ nhắm mắt cấp cho MLK bằng tiến sĩ. Bởi vì, theo ông Pappas, nếu có ít nhất một người trong ban chấm thi này đọc thôi, thì họ đã phải thấy ngay sự đạo văn này.
Vấn đề đạo văn của MLK không dừng lại ở các bài viết của MLK. Năm 1963, MLK đọc một bài diễn văn “lịch sử” nổi tiếng trong lịch sử Hoa Kỳ: Đó là bài “I have a dream.” Bài “I have a dream” thực ra của Mục sư da đen tên Archibald Carey đã đọc trước đại hội đảng Cộng hòa năm 1952.
Đây là chuyện của hai nhân vật nổi tiếng thế giới, một ở trong nước Việt Nam và một ở Hoa kỳ… Nhiều “tác giả” lớn, nhỏ ngày hôm nay tận dụng kỹ thuật “Cắt và Dán” để “chôm” các bài viết, bài khảo cứu đã được phổ biến trước đây (dùng lại nguyên con nhiều khi có đủ cả dấu chấm, dấu phẩy, typo…) rồi hiên ngang để tên mình với chữ đậm nét ở cuối bài. Nếu có người nào cắc cớ tìm ra nguồn của các bài việt này; và hỏi họ thì họ đã có sẵn câu trả lời thật tiện nghi là “tôi quên!”
Các bài khảo cứu văn học, lịch sử hay khoa học của các “ông thầy” Việt Nam trong và ngoài nuớc có “học hiệu” cao như “giáo sư,” “tiến sĩ,” “thạc sĩ,” “bác sĩ…” cũng thường có liệt kê qua loa chiếu lệ trong mục “tham khảo” mà lỡ có ai quởn mở các tham khảo này thì hoàn toàn mù tịt, lạc hướng…
3- Cầm nhầm Tên tuổi
“Cầm nhầm Tên tuổi” đôi khi còn được gọi nôm na là “thấy người sang bắt quàng làm họ.”
Những con cá kèo, những “small fries,” vô danh nhưng nhiều thủ đoạn muốn “nổi” cho mau thường dùng kiểu “cầm nhầm” này: đi đường tắt bằng cách mượn một tên tuổi lớn có sẵn để quá giang cho tới bến cho mau chóng.
Nguyễn Ái Quốc
Đầu tiên, tên gọi “Nguyễn Ái Quốc,” theo chính sử của đảng cộng sản và nhà nước XHCN Việt Nam, vẫn được xem là tên riêng của một mình Nguyễn Tất Thành (sau đó đổi tên nhiều lần trở thành Hồ Chí Minh). Bản “Yêu sách của người An Nam,” viết bằng tiếng Pháp với tựa đề “Revendications du peuple annamite,” xưa nay vẫn được xem là công của một mình Hồ Chí Minh gửi lên Hội Nghị Versailles. Nhưng sử gia Sophie Judge-Quinn quả quyết “Yêu sách của người An Nam” năm 1919 ký tên “Nguyễn Ái Quốc” là của một mình Phan Văn Trường vì lúc đó Nguyễn Tất Thành không thể có đủ trình độ viết và nói tiếng Pháp thông thạo như Phan Văn Trường (là Luật sư).
Một trong những người đầu tiên xác định bút hiệu “Nguyễn Ái Quốc” là tên của chung nhiều người là sử gia Pháp Daniel Hémery, trong “Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam,” xuất bản năm 1990. Đồng thời sử gia Nguyên Thế Anh trong “L’intinéraire politique de Hô Chi Minh” đã ghi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường cũng đứng tên “Nguyễn Ái Quốc” (Nguyễn Thế Anh không có liệt kê tên ông Nguyễn Thế Truyền). Nhưng theo sử gia Daniel Hémery, những người đã dùng bút hiệu “Nguyễn Ái Quốc” gồm có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành. Trong số 4 người dùng tên Nguyễn Ái Quốc chỉ có Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Sinh Cung – Hồ Chí Minh) là học hành kém cỏi nhất – chưa học xong bậc tiểu học – còn 3 người còn lại của nhóm đều là khoa bảng lớn (Phan Văn Trường là Luật sư, Phan Chu Trinh là Phó Bảng, Nguyễn Thế Truyền có 2 bằng kỹ sư Hóa học và cử nhân Triết).
Mặc dù kém học, tài hèn nhưng vì có sẵn thủ đoạn, thấy tên Nguyễn Ái Quốc có vẻ “ăn khách” cho nên Nguyễn Tất Thành giữ luôn làm của riêng cho mình; dùng nó để làm bàn đạp thăng tiến sự nghiệp “Kách mệnh…”
Vũ Trọng Phụng
Dân mít ta học đến bực trung học thì có ai mà không biết tên tuổi của nhà văn Vũ Trọng Phụng, tác giả của những truyên xã hội nổi tiếng như Giông tố, Số đỏ, Cơm thầy cơm cô…
Gần đây có một nhân vật xuất hiện trên môt chương trình phỏng vấn của đài truyền hình Việt Nam SBTN ở Nam Califirnia tự xưng là Đại tá biệt kích (?) Vũ Trọng Khanh, biệt hiệu là Vũ Lăng (?) tốt nghiệp khóa 4 võ bị Đà lạt (?) là con trai của Vũ Trọng Phụng (?) Me xừ Vũ Trọng Khanh còn khai tới luôn là mẹ ông là em gái của Luật sư Trần Văn Tuyên (?)… Ối chà chà! Sao chẳng có ai hay biết về ông Đại tá biệt kích này. Thật là một thiếu sót lớn lao!!!
Nhà văn Hoàng Hải Thủy cho biết chính ông và các bạn văn khác của ông đều biết là Vũ Trọng Phụng chỉ có một người con gái thôi, không có con trai. Năm 1975 đã có một người cả gan tự nhận là Vũ Trọng Khanh, con trai của Vũ Trọng Phụng đến gặp ông tại Sài gòn qua sự giới thiệu của một bạn văn của Hoàng Hải Thủy tên Phù Hư. Hoàng Hải Thủy lần đầu tiên (1975) nghe tên “Vũ Trọng Khanh” đã nghi ngờ rồi. Tháng 3 năm 2008 nhìn hình ảnh của ông “Vũ Trọng Khanh” trên màn ảnh Truyền hình SBTN thì Hoàng Hải Thủy nhận thấy ông “Vũ Trọng Khanh” mới toanh này không phải là ông “Vũ Trọng Khanh” ông đã gặp năm 1975 (?)
Đồng thời, Luật sư Trần Từ Huyền, trưởng nam của luật sư Trần Văn Tuyên phải gởi cậy đăng trên nhiều trang báo chí Việt ngữ một “thư ngỏ” của gia đình ông đại ý nói rằng gia đình ông Huyền không hề biết ông Vũ Trọng Khanh này; cũng như gia phả nhà ông Huyền không có dấu vết gì của me xừ Vũ Trọng Khanh. Đại tá Vũ Lăng “quăng” xứng đáng được nhận một bằng tưởng lục “Có cố gắng!!!” (Graded “E” certificate – “E” for “Effort”).
Tả pín lù
Bây giờ đang có một phong trào rất rầm rộ “nhận vơ” là họ hàng, con rơi, người tình… đại loại “cầm nhầm” các tên tuổi của các nhân vật nổi tiếng hoặc hoàng gia, quí tộc…
Diêu Hương đã nhiều lần tuyên bố trong các buổi tiệc: Diệu Hương là “người yêu” duy nhất của Trịnh Công Sơn. Trịnh Công Sơn không lấy được Diệu Hương thì nhất định không lấy ai (?) Có người trong “circle” của Trịnh Công Sơn đã khai phản thùng TCS là Trịnh Công Sơn liệt… thì nếu Trịnh Công Sơn có lỡ dại yêu và lỡ lấy phải Diệu Hương cũng chỉ là chuyện “rồi như đá ngây ngô” thôi chứ “hưng phấn” gì đâu mà đã vội hô hoán lên cho thiên hạ sợ???
Môt nữ thi sĩ tài hoa khác là Bùi H.T. nào đó gốc gác ở Đà lạt đã tự loan tin nữ thi sĩ là “con rơi” của thi sĩ Bùi Giáng (?) Trời đất! “Con rơi (!)” thì có gì vẻ vang danh giá đâu mà cũng cố gắng bắt quàng làm họ… Ngoài ra Bùi Giáng nghe đâu cũng liệt… như Trịnh Công Sơn thì lấy đâu mà nặn ra con rơi??? Give us a break!!!
Bỗng nhiên cái phong trào “con rơi” rồi “cháu ngoại rơi” này tự nhiên trở thành thời trang hiện đại…
Tôi có môt anh bạn tên Tôn Thất H. Thỉnh thoảng anh H. cũng nói nửa đùa nửa thật rằng anh là một hoàng thân của hoàng gia họ Nguyễn. Tình cờ tôi thấy trên giấy tờ là anh H. sinh quán ở Quảng Ngãi. Tôi hỏi đùa anh H. là:
“Tại sao mày là giòng họ hoàng tộc mà lại sinh ở Quảng Ngãi?”
Anh bạn Tôn Thất H. trả lời là:
“Có gì mà mày phải ồn ào? Tại vì ‘Vua’ đến thăm và ngủ lại ở Quảng Ngãi chỉ có một đêm thôi à!”
Chỉ có vậy thôi (một đêm!) thì cũng chẳng nên “cầm nhầm” làm gì.
Có cố gắng !!!
Trần Văn Giang
Orange County – Tháng 3 / 2010
Four Factor Fair Use Test
Here are the “test,” aka the “Four Factor Fair Use Test” to determine whether a piece may be covered by the fair use provision. The test asks four questions:
1. What is the Purpose and Character of Use? If it is for personal or educational use, then it leans towards the side of fair use. If the intended purpose is it for commercial use, it leans away from fair use and towards the need to obtain permission from the author.
2. What is the Nature of the Copyrighted Work? If the original work is mostly factual data, then the tendency is to allow for fair use. If the original is mostly creative work, it leans the other way.
3. What Amount and Substantiality of the Portion Used of the Copyrighted Work? If it’s just a small portion of the work you’re borrowing, the balance tips towards fair use. If you plan to use a significant amount of the original, the scale tips in the other direction.
4. What may be the Effect Upon Potential Market or Value of the Copyrighted Work? If you widely distributed your paper or Web page, will it affect the original author financially? Are you taking away the original author’s business by publishing your work?
Compiled by Tran Văn Giang